QUÂN
TỬ VÀ TIỂU NHÂN
(Cập nhật hóa ngày 01/10/2002;
06/11/2002; 15/02/2003; Mar. 01/03; May 03/03; Aug. 04/03)
Nền văn hóa
Khổng giáo đã có một ảnh
hưởng lớn lao đến lề
lối sinh hoạt của những quốc
gia Á đông trong suốt mấy ngàn
năm. Khổng tử không còn nằm
trong giới hạn đất nước
Trung Hoa mà đã coi như vị thầy
có ảnh hưởng rất nhiều
đến xã hội bên ngoài Trung
Hoa. Aûnh hưởng Khổng giáo được
coi là khá sâu đậm ở Á
châu, đặc biệt ở Việt Nam
vì Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ
hơn một ngàn năm. Khổng tử
tuy không phải là một giáo chủ
nhưng được xưng tụng là
vị thầy của muôn đời
( vạn thế sư biểu ) bởi những
điều hay lẽ phải ngài dạy cho
con người đối xử với
nhau cũng như những bổn phận của
công dân đối với quê
hương, đất nước. Một
trong những đặc trưng tiêu biểu
của văn hóa Khổng giáo là
những tiêu chuẩn đề ra để
đánh giá loại người nào
là Quân tử và loại người
nào bị coi là tiểu nhân. Ðại
khái tất cả những đức
tính tốt đẹp, cao thượng,
đáng quý trọng đều thuộc
về quân tử; ngược lại
tất cả những gì nhỏ mọn,
tầm thường, thấp hèn đều
thuộc về tiểu nhân.
Nhân loại kể
từ ngày có mặt trên mặt
đất đã trải qua từ thời
kỳ đồ đá, đồ đồng
và riêng tại Việt Nam hiện giờ
đang ở trong thời kỳ " đồ
đểu". Mọi sự gian trá, lật
lọng được nhà nước
coi như một quốc sách để trị
dân và người dân Việt Nam
sống trong chế độ Cộng sản hầu
như không còn sống với con người
thật của mình mà phải dối trá,
mánh mum để tồn tại. Nguyễn
chí Thiện có mấy câu thơ cực
hay để diễn tả lối sống dối
trá cùng cực trong chế độ
Cộng sản, " Nếu phải sống lại
thời đồ đá. Cũng còn
hơn gấp vạn gấp ngàn. Cái thiên
đường đói khổ miên
man. Toàn giết chóc, tù lao, dối
trá." ( 1) . Nhà thơ Bùi minh Quốc,
dù là một cựu đảng viên
cộng sản , thế mà sau 1975 sống thêm
vài năm trong chế độ cộng sản
, ông đã nhìn thấy sự đểu
cáng tràn lan trong xã hội đến
nỗi ông phải kêu lên, " Quay mặt
vào đâu cũng phải ghìm cơn
mửa. Cả một thời đểu
cáng đã lên ngôi ".Học giả
Nguyễn hiến Lê sau vài năm sống
trong chế độ Cộng sản cũng đã
lên tiếng phiền trách về sự
tha hóa của con người Việt Nam
như sau, " Trong một xã hội như vậy,
con người dễ mất hết nhân
phẩm, hóa ra đê tiện, tham lam, bất
lương,nói láo, không còn tình
người giø cả ( Hồi ký
tập 3 trang 104) và " Sống dưới
chế độ Cộng sản, con người
hóa ra có hai mặt như Sakharov đã
nói: chỉ giữa người thân
mới để lộ mặt thật, còn
thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn
phải đề phòng bạn bè,láng
giềng, có khi cả người trong
nhà nữa. ( Hồi ký tập 3 trang
106), " Ông Hồ chí Minh có lần nói
" Muốn xây dựng xã hội chủ
nghĩa thì phải có con người
xã hội chủ nghĩa " Con người
vẫn là quan trọng hơn cả. Có
chế độ tốt, chính sách tốt
mà không có con người tốt
thì hỏng hết. Ai cũng phải nhận
rằng tinh thần, tư cách đại đa
số cán bộ càng ngày càng
sa sút, hủ hóa mà xã hội chủ
nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông
Hồ đã thấy trước cái
mòi suy vi đó khi ông thốt ra lời
trên chăng ( Hồi ký tập 3 trang 107,
108). Nhà lý luận Hà sĩ Phu đã
phải lên tiếng báo động là
đất nước Việt Nam đang trải
qua thời kỳ " tổng khủng hoảng
nhân cách " một cách trầm trọng,
đã tạo ra những cách sống
lừa dối , giả dối, nịnh hót,
ích kỷ cá nhân, thờ ơ
với đời, với xã
hội.
Những nhận xét
của Nguyễn chí Thiện, Bùi minh Quốc,
Nguyễn hiến Lê, Hà sĩ Phu đều
là những nhận xét chính xác
về tính dối trá đã đi
đến tình trạng phổ cập khắp
toàn xã hội Việt Nam trong mấy mươi
năm nay. Ðó là sản phẩm cụ
thể của cơ chế chính quyền Cộng
sản Việt Nam, do tên đại gian ác
quỷ quyệt Hồ chí Minh huấn luyện
và đào tạo ra lối suy nghĩ
và lối sống " bất cận nhân
tình", tàn nhẫn, vô nhân đạo
này đối với nhân dân
không những lan tràn trong những
cán bộ điều hành trong guồng
máy của Ðảng mà còn tạo
thành một nếp sống gian dối đã
dần dần biến thành thói quen trong
xã hội. Ðó là những tiếng
chim báo bão của những người
văn nghệ sĩ, lúc nào cũng có
một khả năng nhạy cảm nhìn thấy
sớm vấn đề hầu báo
trước một tình trạng vô cùng
man trá ghê rợn của một xã
hội trong đó người đối
xử với nhau không bằng tình
người đôn hậu mà bằng
sự dối trá của ma quỷ, sự
độc ác của nọc rắn và
sự lạnh lùng của những người
không còn tim óc.
Chuyện nghèo đói
của một quốc gia có thể khắc
phục trong một thời gian bằng những
kế hoạch kinh tế thực dụng, nhưng
cuộc khủng hoảng nhân cách là
một loại khủng hoảng tệ hại mà
muốn khắc phục được nó
không thể chỉ bằng những chỉ
thị, những nghị quyết hay những
lời rao giảng đạo đức
mà đây là một chuyện làm
văn hóa dài lâu có thể kéo
dài vài thế hệ. Cốt lõi của
nền văn hóa Khổng giáo đặt
trên sự phân biệt giữa quân
tử và tiểu nhân nên chuyện
đào sâu ý nghĩa của hai loại
người này sẽ tạo ra sự
căn bản cho chuyện đào tạo một
lớp người dân quân tử
có lòng tự trọng, có liêm
sỉ, khí khái và đồng thời
phê phán loại trừ đám
tiểu nhân sâu dân, mọt nước
để làm cho cuộc sống tươi
đẹp hơn, xã hội được
yên ổn thái bình thịnh trị hơn.
Có nhìn đến sự tệ hại,
ghê tởm của " con người mới
xã hội chủ nghĩa " hôm nay ở
Việt Nam thì mới thấy chuyện đào
sâu tìm hiểu quan niệm và cách
ứng xử của à người
quân tử và tiểu nhân của
Khổng giáo không phải là chuyện
làm lỗi thời, vô bổ cho thời
đại ngày nay. Có đụng chạm
với sự gian trá lật lọng hàng
ngày đến độ buồn nôn,
ghê tởm người ta mới
thấy yêu, thấy quý những hành
vi trọng nghĩa , khinh tài; những cử
chỉ thương yêu , những lời
nói thành thật của người
dành cho nhau.
Chữ Quân tử
lúc đầu trỏ hạng quí tộc,
cầm quyền, trị dân. Tiểu nhân
là dân thường. Khổng tử
cho rằng người cầm quyền phải
có đức, do đó mà quân
tử còn có nghĩa là người
có đức dù cầm quyền
hay không. Chữ tiểu nhân cũng
vậy, có hai nghĩa: dân thường
, hoặc người cầm quyền nhưng
thiếu đức. Người quân
tử chăm chú vào việc gốc,
gốc mà vững thì đạo đức
sinh ra. Hiếu, để là cái gốc
của đức Nhân. Ở trong nhà,
người quân tử thì hiều
thảo với cha mẹ, ra ngoài thì
kính nhường bậc bề trên,
thận trọng lời nói mà thành
thực, yêu khắp mọi người
và gần gũi người nhân
đức, làm được như
vậy rồi mà còn dư sức thì
sẽ học văn. Ngoài ra người
quân tử chuyên chú vào sự
trung tín, không kết bạn với
những người không trung tín.
Người quân tử làm chính
trị thì dùng đức để
cảm hóa dân như sao Bắc đẩu
ở một nơi mà các ngôi sao
khác hướng về, có nghĩa
là thiên hạ theo về cả.
Chịu ảnh hưởng
luân lý Khổng Mạnh nên người
Việt Nam cũng bày tỏ cách hành
xử đúng đắn của trai và
gái theo khuynh hướng quân tử
như sau
Trai thì trung hiếu
làm đầu
Gái thì tiết
hạnh là câu trau mình
( Lục vân Tiên
)
Trung hiếu tiết
hạnh đó cũng là cách ứng
xử của người quân tử
ở Việt Nam và quan niệm này cũng
không xa cách lắm với quan niệm
quân tử do Khổng tử đề
ra. Cách trị dân của người
quân tử là tránh dùng chính
lệnh để dắt dẫn dân, dùng
hình phạt để bắt dân vào
khuôn phép, dân tránh khỏi tội
nhưng không biết hổ thẹn. Dùng
đạo đức để giáo
hóa và dắt dẫn dân, dùng
lễ giáo để đặt dân vào
khuôn phép, dân biết hổ thẹn
mà lại theo đường chính.
Ðiều này cho thấy khó có
thể cai trị một xã hội bằng những
luật lệ, nghị định cứng ngắc
vì khi người dân không biết
xấu hổ, họ sẽ dùng trăm phương
ngàn kế để luồn lách và
tránh né luật pháp do nhà nước
đề ra.
Cách đây
vài năm, khi qua thăm Việt Nam, Thủ
tướng Singapore là Lý quang Diệu
đã nhận xét là nạn tham nhũng
ở Việt Nam đã vượt qua
phạm trù đạo đức. Có
nghĩa là ở Việt Nam bây giờ
người tham nhũng không còn biết
mắc cỡ, không cảm thấy áy
náy lương tâm khi làm những
chuyện sai trái, móc ngoặt. Có đề
ra những hình phạt nghiêm khắc
để trừng trị bọn tham nhũng
gộc thì chỉ có tác dụng nhỏ
đối với bọn tham nhũng sợ
tù tội, chết chóc nhưng lại không
có hiệu quả đối với những
kẻ tham nhũng nhỏ không còn biết
mắc cỡ, thẹn thùng khi đục
khoét tài sản của nhà nước,
của nhân dân. Những kẻ tham nhũng
nhỏ này nghĩ rằng dù có bị
bắt thì hình phạt mà chúng
nhận lấy cũng không đến nỗi
khe khắt và do đó không ngần
ngại để ăn cắp của cải
của nhà nước.Khi không có
lòng tự trọng tối thiểu thì
không có ai ngăn cản chúng làm
những chuyện gian trá vặt vãnh.
Nhưng lỗ nhỏ thì đắm thuyền,
cả bộ máy nhà nước Việt
Nam đang tiến đến giai đoạn
sụp đổ vì tham nhũng mà không
có phương cách gì cứu vãn
nổi. Cộng sản đánh giá tham
nhũng là quốc nạn là chính
xác nhưng chính bộ máy chuyên
chính quan liêu của chúng là mầm
mống và nguyên nhân gây ra tham nhũng.
Cái lối sống xã hội chủ nghĩa
đặt nặng vấn đề vật chất
lên trên vấn đề tinh thần
đã dần dần đào tạo
ra một tầng lớp cán bộ tham nhũng
mà không còn biết ngượng
ngùng e thẹn. Phần hồn, phần liêm
sỉ của con người dần dà
bị chủ nghĩa Cộng sản tiêu hủy
đi nên họ không còn biết e thẹn,
ngượng ngùng khi làm việc xấu
như tham nhũng. Hồ chí Minh nói, "
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã
hội chủ nghĩa. " Tiếc rằng con người
xã hội chủ nghĩa là một con người
không còn biết liêm sỉ, không
còn biết mắc cỡ khi ăn cắp
của công, tham nhũng nên chủ nghĩa
xã hội sẽ không bao giờ xây
dựng được.
Truyện Tam Quốc Chí
đã cho thấy Lưu Bị, Khổng Minh
coi như đại diện cho lớp người
quân tử, làm việc gì cũng
căn cứ trên căn bản đạo
đức, chữ tín và điều
nhân nghĩa. Lưu Bị đã nhiều
lần từ chối những chuyện
làm có lợi cho mục đích
khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán
nhưng lại bất nghĩa, vô đạo
đức. Lưu Bị có thể coi là
một mẫu người quân tử
trong khi hạng tiểu nhân có thể đưa
ra một nhân vật điển hình là
tên gian hùng Tào Tháo. Hành động
gì Tào Tháo cũng đặt vấn
đề quyền lợi ích kỷ cá
nhân lên trên hết và bỏ qua
những gì có liên quan đến
danh dự, đạo đức, nhân
nghĩa. Gian hùng ngày xưa là Tào
Tháo, gian hùng ngày nay có thể
nói đến cáo già Hồ chí
Minh. Hồ chí Minh đã đổi cái
quan niệm trung hiếu của người
quân tử thời xưa thành cái
quan niệm trung hiếu của người
cán bộ Cộng sản là " Trung với
Ðảng, hiếu với dân." Cứ
nhìn những cán bộ Cộng sản
trong chiến dịch cải cách ruộng đất
mang những cụ già ra đấu tố,
lăng nhục, hành hạ thì cũng đủ
thấy cái " hiếu" của cán bộ
Cộng sản của Hồ chí Minh đối
với dân như thế nào! Những
nguyên tắc ứng xử của người
quân tử trong Nho giáo như " Lễ,
nghĩa, liêm, sỉ ", giữ mình thì
khiêm cung, thờ vua thì kính cẩn,
nuôi dân thì có ân huệ, sai dân
thì hợp tình, hợp lý. Hồ
chí Minh cũng rút tỉa từ tinh
thần đó và dạy dỗ cán
bộ của ông là " cần, kiệm liêm
chính, chí công vô tư " . Tiếc
rằng cái cơ cấu nhà nước
Cộng sản đã không là môi
trường để người cán
bộ Cộng sản thực hành đức
tính cần,kiệm liêm chính mà
trái lại là môi trường
béo bở để cán bộ đục
khoét tài sản của nhà nước,
của nhân dân. Người cán
bộ Cộng sản hôm nay đã không
được dạy dỗ tinh thần liêm
sỉ, tự trọng của người
quân tử trong Nho giáo nên dính
líu vào tham nhũng mà không hề
áy náy lương tâm. Giờ đây
tham nhũng đã trở thành quốc
nạn và có nguy cơ giật sập chế
độ và vì không có cơ cấu
giám sát hữu hiệu nhằm chế
tài tham nhũng nên tham nhũng giờ
đây được coi như căn
bệnh bất trị, ngày đêm tàn
phá cơ cấu nhà nước Cộng
sản cho đến mục nát và vấn
đề sụp đổ cơ cấu này
chỉ là vấn đề thời gian.
Một đặc điểm
nữa của người quân tử
là hòa hợp mà không a dua, kẻ
tiểu nhân a dua mà không hòa hợp.
Người quân tử giao tiếp với
người thì giữ niềm hòa
lạc nhưng chẳng đồng tình trong
việc quấy, kẻ tiểu nhân giao tiếp
với người thì đồng
tình trong việc quấy nhưng chẳng giữ
niềm hòa lạc. ( Quân tử hòa
nhi bất đồng. Tiểu nhân đồng
nhi bất hòa. ). Chủ trương của
người quân tử , chẳng hạn
về vấn đề chính trị hay tôn
giáo, cho dù có khác với
người thì cũng không đả
kích người, vẫn tìm cách
hợp tác với người
( vì hai bên cùng đeo đuổi một
mục đích cả) mà không thay đổi
chủ trương của mình ( bất đồng);
kẻ tiểu nhân thì đồng lõa
" cắt máu, ăn thề " trong chuyện làm
việc ác, nhưng sự bất mãn,
chống đối vẫn ngấm ngầm
tiềm tàng trong đó, và sẽ
cấu xé đấu đá nhau khi kết
qủa " ăn không đồng, chia không
đều". Tiểu nhân có hùn hạp,
cộng tác với nhau thì chung qui cũng
là để tranh giành vật chất,
quân tử thường hợp tác
với nhau cho những mục tiêu hướng
thượng, an nước lợi dân.
Quân tử thường hướng
lên cao ( đạo đức) mà mong
đạt tới, kẻ tiểu nhân hướng
xuống thấp ( tài lợi) mà mong
đạt được ( Quân tử
thượng đạt, tiểu nhân hạ
đạt). Hơn nữa, người
quân tử thư thái mà không
kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu
căng mà không thư thái.
Nguyễn công Trứ
ngày xưa cũng có những câu
thơ trong bài " Hàn nho phong vị phú
" nói về người quân tử
khá hay, " Ngày ba bữa, vỗ bụng
rau bình bịch, người quân tử
ăn chẳng cầu no. Ðêm năm canh,
an giấc ngáy kho kho, đời thái
bình cửa thường bỏ ngỏ."
. Nói chung, người quân tử
thường ăn không cầu no, ở
chẳng cần sửa sang nhà đẹp,
làm việc gì cũng chăm chỉ, nói
lời gì cũng cẩn thận, thường
tìm đến người có đạo
đức để học hỏi mà
sửa mình; có như vậy mới
có thể gọi là người học
giả vậy.) ( Quân tử thực vô
cầu bão, cư vô cầu an, mẫn
ư sự nhi thận ư ngôn, tựu
hữu đạo nhi chính yên, khả
vị học giả dã- ( Luận Ngữ
) ) .
Người quân
tử thường quan niệm " tri hành
hợp nhất ", lời nói phải
đi đôi với việc làm và
phải tôn trọng lời nói ( quân
tử nhất ngôn ). Chỉ có những
kẻ tiểu nhân mới dè bỉu
cái thái độ tôn trọng lời
nói của người quân tử,
" Quân tử nhất ngôn là quân
tử dại, quân tử nói đi
nói lại là quân tử khôn."
Quân tử khôn ở đây
chỉ là một dạng tiểu nhân láu
cá, lật lọng mà thôi. Người
quân tử lấy làm thẹn khi nói
nhiều mà làm ít nên thường
rụt rè về lời nói mà
gắng sức về việc làm ( Quân
tử sĩ kỳ ngôn nhị quá
kỳ hành).
Ðã là người
quân tử thì luôn luôn tự
răn mình: Khi còn trẻ, khí huyết
chưa định ( thân thể chưa phát
triển đủ), nên răn về sắc
dục; tuổi tráng niên, khí huyết
cương cường, nên răn về
tranh đấu; về già, khí huyết
đã suy, nên răn về tính tham).
Kẻ tiểu nhân thì không quan tâm
đến chuyện rèn luyện cá tính
con người, cho dù trẻ hay già
thì chỉ hành động theo tài lợi,
dù chuyện này bị những người
chung quanh chê trách, khinh bỉ.
Nói đến
những tính chất tốt đẹp
của người quân tử thì
không thể không đề cập đến
hạng người " ngụy quân tử".
Ngụy quân tử ăn nói, làm
bộ hành động như quân tử
nhưng đó chỉ là những phô
trương dối trá bên ngoài thôi,
thực chất loại " ngụy quân tử"
này mang bản chất ti tiện, xấu xa
của tiểu nhân. " Ngụy quân tử"
đóng vai quân tử cũng chỉ
với mục đích lường
gạt, dối trá cho tài lợi của
mình. Sự nhân nghĩa thành thật
thật sự không bao giờ có
mà chỉ là thái độ " giả
nhân, giả nghĩa "mà thôi. Cho nên
" ngụy quân tử " cũng là một
dạng khác của tiểu nhân mà phải
tinh ý lắm người ta mới
nhìn ra được. Hồ chí Minh
là một mẫu " ngụy quân tử
" điển hình. Hồ đã giết
cả trăm ngàn dân vô tội trong
cuộc cải cách ruộng đất và
vô số ngụy quân, ngụy quyền trong
những nhà tù cải tạo, thế
mà Hồ luôn đóng vai là một
ông tiên, một nhà lãnh đạo
luôn quan tâm lo lắng đến phúc
lợi của nhân dân. Chắc ai cũng
còn nhớ đến câu nói
" thương dân " nổi tiếng của Hồ
chí Minh, " Một ngày mà nhân dân
chưa đủ cơm ăn áo mặc là
Bác ăn không ngon, ngủ không yên."
Hồ chí Minh là một diễn viên
đại tài, ông khá thành thạo
với những màn chảy nước
mắt cá sấu khi có nhu cầu diễn
vai ướt át, sầu thảm đó.
Ông không có lòng thương dân
chân thành, lòng thương dân chỉ
ở đầu môi chót lưỡi
của ông thôi. Ông đã huấn
luyện và đào tạo ra một thế
hệ cán bộ " ngụy quân tử"
giả nhân, giả nghĩa để đạt
cho được cứu cánh chính
trị của mình.
Ở Việt Nam vào
thế kỷ thứ 18 và 19 có xuất
hiện một tầng lớp " sĩ phu" có
thể coi như tập hợp những người
quân tử. Họ tụ tập với
nhau và giương cao ngọn cờ ủng
hộ vua ( phong trào Cần Vương) và
chống quân Pháp xâm lược.
Những người sĩ phu này nói
chung là những người có
nền học vấn cao, đôi khi xuất
thân từ giới khoa bảng như
các cụ Phan bội Châu, Phan chu Trinh nhưng
sẵn sàng từ bỏ bổng lộc
triều đình để làm một
người dân yêu nước
đứng lên tranh đấu khi đất
nước bị xâm lăng. Họ là
những người có khí khái,
có tư cách, có lòng yêu nước
nồng nàn và sẵn sàng hy sinh khi
dấn thân tranh đấu cho nền độc
lập nước nhà. Họ tuy không
thành công nhưng đã để
lại những ấn tượng đẹp
trong lòng toàn dân về một mẫu
người quân tử thời
đại. Phải nhớ rằng hạng
quân tử sĩ phu nếu chỉ dũng
cảm mà không hợp nghĩa lý
thì làm loạn; kẻ tiểu nhân chỉ
dũng cảm mà không hợp nghĩa
lý thì làm trộm cướp (
Quân tử hữu dũng nhi vô
nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng
nhi vô nghĩa vi đạo). Cho nên người
ta coi những sĩ phu quân tử tham
gia phong trào Cần vương để cứu
nước là những người
yêu nước đáng kính; còn
có những ta những bọn băng
đảng tập họp nhau lại để
nổi loạn như giặc Châu Chấu, giặc
Cờ Ðen được nhân dân
đánh giá như một bọn thổ
phỉ, cướp bóc không hơn không
kém vì chuyện nổi loạn không nhằm
mục đích chống lại quân xâm
lược mà chỉ với mục
đích lợi nhuận cho bè đảng
phe phái mình mà thôi. Rõ ràng
là có sự khác biệt như thế.
Cộng sản thường phê phán
chế độ phong kiến và những
cơ cấu phong kiến như triều đình,
quan lại nhưng phải nhận thấy rằng
chế độ phong kiến Việt Nam trong thế
kỷ 18, 19 đã sản sinh ra một thế
hệ sĩ phu giàu lòng yêu nước,có
tư cách đáng kính mà chế
độ Cộng sản không thể nào
có được. Có lẽ giới
sĩ phu này vẫn hằng tâm niệm
" Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã
" ( Thấy việc nghĩa mà không làm
thì không có dũng ) . Ðứng
trước cảnh nước mất
nhà tan, triều đình bị ức
chế, người sĩ phu lúc đó
cảm thấy có bổn phận đứng
lên để cứu nước, cứu
dân vì họ không thể chấp nhận
mang tiếng hèn nhát. Chế độ
Cộng sản chỉ đào tạo ra được
những mẫu cán bộ theo chủ nghĩa
" duy lợi" và bất cố liêm sỉ,
không có được cái tư
cách tối thiểu của một con người.
Ðám cán bộ hư hỏng, mất
tư cách chuyên nghề bóc lột,
tham nhũng phản nước hại dân
này sẽ là nguyên nhân làm
cho chế độ Cộng sản sụp đổ
một ngày không xa. Ðám cán
bộ thối nát này hành động
xằng bậy vì chúng không có
được lề lối suy nghĩ của
một người sĩ phu, quân tử.
Bao nhiêu công lao rèn luyện của tên
gian hùng tiểu nhân Hồ chí Minh đã
đào tạo ra một lớp cán
bộ " mặt người dạ thú " và
khi được lùa thả ra thì đám
cán bộ này thành một lũ âm
binh gây họa cho đời mà chế
độ sản sinh ra chúng cũng không
còn điều khiển được.
Người quân
tử luôn tự nhắc nhở
mình, " Phú quý bất năng dâm,
bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất " ( Phú qúy rồi thì
không hư hỏng, đồi trụy; có
nghèo khó cũng không nao núng, thay
đổi; bị đe dọa bằng võ
lực cũng không khuất phục). Hơn
nữa, người quân tử khi
khốn cùng thì cố giữ tư
cách của mình, kẻ tiểu nhân
khi khốn cùng thì phóng túng làm
càn, làm bậy. Người quân
tử luôn lấy nghĩa làm gốc,
theo lễ mà làm, nói năng khiêm
tốn, nhờ thành tín mà nên
việc, lúc nào cũng nghiêm trang giữ
lập trường mà không tranh với
ai, hòa hợp ( cộïng tác ) với
mọi người mà không bè đảng.
Kẻ tiểu nhân phần nhiều do không
được giáo dục nên cứ
hành động theo bản năng, theo quyền
lợi nên thường thất bại.
Tăng Sâm có một câu nói đáng
làm châm ngôn về Quân Tử,
" Quân Tử dĩ văn hội hữu,
dĩ hữu phụ nhân " (Người
quân tử dùng văn chương để
họp bạn, dùng bạn để giúp
nhau tiến lên đức nhân ).
Trong bài viết
" Tầm văn hóa thấp của trào
lưu Cộng sản" nhà lý luận thiên
tài Hà sĩ Phu đã phân tách
chi li và thấu đáo về vị
trí của người quân tử
trong xã hội Cộng sản. Tại sao Cộng
sản lại sổ toẹt khái niệm người
quân tử và tại sao thành phần
được gọi là quân tử
lại quá sức hiếm hoi trong xã
hội Cộng sản? Hà sĩ Phu đã
dẫn giải nguồn gốc sâu xa của
sự thiếu vắng giới quân
tử như sau:
" Nền đạo
đức vô sản thâu nạp đủ
điều đạo đức của
Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Ðức,
Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, đến Chính
tâm tu thân, đến kế hoạch trăm
năm trồng người, đến điều
lo trước thiên hạ, hưởng
sau thiên hạ, đến Dân là gốc,
coi cán bộ là nô bộc của dân,
dĩ bất biến ứng vạn biến..tất
cả đều đã có trong sách
vở Nho giáo. Duy có chữ Quân
Tử là cái tử tế nhất
của Nho giáo thì ta tránh hẳn. Các
nhà lý luận viện cớ rằng
Quân Tử là tầng lớp bóc
lột nên ta không học.
Nếu phạm trù
Nhân, Thiện, Ðức còn mang tính
lý tưởng, hoặc còn chung chung,
trừu tượng, thì phạm trù
Quân Tử đưa thiện-ác vào
tới con người cụ thể, thái
độ ứng xử cụ thể. Mỗi
tình huống ấy là một cuộc thử
thách quyết liệt: anh nói anh " thiện",
anh " đạo đức" thì anh thể
hiện ra đi, quyết định lấy một
thái độ ứng xử đi;
hoặc là hành động một cách
Quân Tử, hoặc là hành động
một cách Tiểu Nhân! Bài học về
Quân Tử thiết thực lắm. Quân
Tử rất gần với Trượng
Phu và Thượng Võ. Người
ta thua trận, người ta nằm trong tay anh
rồi, anh làm gì người ta cũng
phải chịu, thì anh sẽ đối xử
thế nào? Hoặc là anh học người
xưa, đem tất cả sổ sách thù
hận đốt đi để coi nhau như
anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ
ra, bới lông tìm vết để
phân biệt đối xử?
Anh có mọi quyền
lực trong tay, anh muốn nói gì, nói
cả ngày cũng được, thì
anh có nhường một tờ báo,
một diễn đàn cho người
khác trình bày tiếng nói của
họ hay không? Anh nắm hết mọi sức
mạnh trong tay, muốn bày đặt cái
gì cũng được, thì anh có
dành cho Nhân Dân một Hội Ðồng
để giúp anh thu thập tiếng nói
của Dân, hay anh lại tìm cách đưa
Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành
ủy sang phụ trách luôn " Hội Ðồng
Nhân Dân" cho nhất quán? Anh có quyền
ký một chữ thì người
khác có nhà ở, vậy anh có
thắng nổi cái lòng tham của con người,
dám trọng nghĩa khinh tài mà từ
chối mấy lạng vàng đút lót
để dành cái nhà ấy cho một
thầy giáo nghèo được không?
Bởi nó
cụ thể như thế nên đạo đức
giả thì dễ nhưng Quân tử
giả thì không dễ chút nào,
thiệt đến quyền lợi sát
sườn ngay! Người Cộng sản
thích chơi trò " đạo đức
" nhưng không dám chơi trò " Quân
tử " . Chủ nghĩa phong kiến so với
ngày nay thì vô cùng tồi tệ,
nhưng thời thịnh trị nó đã
cung cấp cho loài người rất
nhiều Người Lớn, là nhờ
có một tinh thần Quân Tử. Dùng
đạo đức, con người
vẫn có thể lừa cả mình,nhưng
khi trong lòng đã cất tiếng Quân
Tử thì con người phải đối
diện với chính lương tâm nó,
không trốn vào đâu được.
Quân Tử thì
phải Chính Danh! Có người bảo
Chính danh là thủ đoạn của bọn
thống trị nhằm phân biệt ngôi
thứ. Không đúng! Công bằng
hay không là ở chỗ định
danh, định nội hàm của Danh, chứ
khi định Danh rồi thì phải theo Danh
mà làm! Danh một đàng, Thực
một nẻo thì đại loạn.
.. Dân mình có
thói khôn vặt: Nói thế mà
không phải thế! Nói " dzậy" mà
không phải " dzậy", nên khi gặp chủ
nghĩa Mác-Lê thì tâm đắc
vô cùng, cả hai đều thích nhân
danh nhưng không thích Chính Danh.
Trong cuốn " Ðề
cương giới thiệu Dự thảo
cương lĩnh Xây dựng Chủ Nghĩa
Xã Hội trong thời kỳ quá độ
" ( tức Cương lĩnh của Ðại
hội Ðảng lần thứ 7) có
câu " Nguyên tắc thứ nhất nói
về xây dựng Xã hội chủ nghĩa,
tuy không dùng chữ Chuyên chính
vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn
quán triệt bản chất Chuyên chính
vô sản" ( Sách đã dẫn trang
15). Có lẽ do quá quen với phương
pháp luận Mác-xít, nên người
viết câu ấy không cảm thấy
tính Tiểu nhân trong đó. Thử
hỏi tại sao thế: Nếu thấy Chuyên
chính vô sản là hay thì phải
công khai bảo vệ luận điểm ấy,
nếu thấy là dở thì phải
thực tâm từ bỏ, chứ
ngoài mặt nói với dân không
có Chuyên chính mà nội bộ Ðảng
thì lại dặn nhau: Cứ Chuyên chính
mà làm! Thì chẳng Quân Tử
tí nào? Ðiều nói dối ấy
đã làm dân mất lòng tin,
đã đành, nhưng trong Ðảng
thì đấy chính là sự dạy
nhau nói dối, và Ðảng viên
sẽ dùng cách ấy để ứng
xử với Ðảng: Nghị quyết
nói thì cứ để Nghị quyết
nói, mình có cách " vận dụng"
của mình, Nghị quyết " dzậy" mà
không phải " dzậy"!
Người Việt
Nam muốn ra người Quân tử
đã khó, người Cộng sản
Việt Nam muốn ra người Quân tử
lại càng khó hơn. Bởi thế
tôi thật kính trọng thái độ
Quân tử của tướng Trần
Ðộ khi ông viết cho Ðảng dòng
sau đây, " Cần phải dứt khoát
chọn một trong hai tư tưởng chỉ
đạo: Hoặc thực hiện Chuyên Chính
vô sản, mà Ðảng là đại
diện và nhân danh. Hoặc thực hiện
một Nhà Nước Pháp quyền,
một Nhà Nước của Dân, do
Dân, vì Dân. Không thể cứ
nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.
"
Quân tử lại
gắn với Liêm Sỉ. Liêm Sỉ
là biết tự xấu hổ, trước
hết là với lương tâm mình.
Bậc trượng phu không được
lấy nể vì Nghĩa lớn mà
bước qua điều Sỉ nhỏ. Hoàng
Diệu, Phan thanh Giản, Nguyễn tri Phương
tuy không có tội, nhưng xấu hổ
vì không làm tròn nhiệm vụ giữ
thành nên quyết tự vẫn. Càng
là bậc đàn anh thiên hạ, lòng
tự Sỉ càng phải lớn. Có
khi đời tha cho mình mà mình
không tha cho mình được… Ở
ta, người Cộng sản làm hỏng
việc thì tìm cách chuồn lên
ghế cao hơn( mà lại chuồn được!).
Chuyện ấy, địa phương nào
cũng có, Trung ương lại càng điển
hình. Phải chăng vì bài ca " lợi
quyền" kia đã ngấm vào xương
thịt? Ðể riễu cái thói đạo
đức giả nhưng lại vô sỉ,
bám ghế tới cùng, người
dân nhại lời các quan chức
thế này," Ông không ham chức
quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông
quyết ở lại làm đầy tớ
của dân! Ðứa nào ngăn
không cho ông phục vụ, ông đánh
bỏ mẹ ."
Khi viết những
bài lý luận chính trị, Phó
tiến sĩ sinh học Nguyễn xuân Tụ
lấy bút hiệu là Hà sĩ Phu.
Hà sĩ Phu có nghĩa là sĩ phu
đâu rồi? Ông lên tiếng kêu
gọi vì ông không thấy tầng lớp
sĩ phu xuất hiện ở đâu
cả trong chế độ Cộng sản. Tầng
lớp sĩ phu quí giá của thời
trước dần đà mai một vì
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
bây giờ chỉ đào tạo ra
một lớp người tuy có học
nhưng vô liêm sỉ, không óc, không
tim, dửng dưng trước nỗi đau
đồng loại trong một xã hội nhầy
nhụa như một nồi cám heo. Những
chí làm trai tang bồng hồ thỉ với
ước mong bạt núi lấp sông,
những chuyện nợ nước
thù nhà phải chăng chỉ còn
là dư âm của một thời đã
qua?
Dương thu Hương
trong một lá thư trao đổi với
Nguyên khả Phạm thanh Chương ( Uùc)
vào tháng 1/2002, cũng đã cho rằng
" sự sợ hãi chế độ
độc tài buộc họ phải giả
câm, giả điếc".Bà thêm rằng
" chúng ta cũng chẳng thể trách
họ, đừng trách móc những
kẻ hèn nhát mà hãy lên án
cái chế độ đã biến
con người thành hèn nhát ".
Con người bao giờ cũng là
sản phẩm của xã hội cho nên chúng
ta không lấy gì ngạc nhiên khi thấy
con người Việt Nam hôm nay, đặc
biệt là giới trí thức,
chịu cam kiếp sống ù lì nhẫn
nhục. Nói như thế không phải là
tất cả những con dân Việt Nam
hôm nay đều tê liệt trước
sự khủng bố của bạo quyền.
Dương thu Hương cho biết thêm là
" đã có một nhóm nhỏ và
một số cá nhân đứng lên
làm những chiến sĩ dân chủ.
Muốn liên kết chặt chẽ, muốn
có thông tin chính xác và đầy
đủ về một phong trào, muốn
có mối liên hệ rộng rãi giữa
các thành viên, nhất thiết phải
có Ðảng Dân Chủ, Ðảng
Tự Do hoặc một tổ chức chính
thức hợp phápû.
Gần một ngàn
năm trươc, năm Ðại Thuận thứ
3 ( 1130), Quốc sư Viên Thông đã
có dịp trình bày vai trò của
người quân tử và tiểu
nhân với vua Lý Thần Tông như
sau:
"Thiên hạ cũng
như đồ dùng, để chỗ yên
thì được yên, để chỗ
nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ
hãy làm sao được như thế.
Dùng đức hiếu sinh hợp
với lòng dân, cho nên dân yêu
thương như cha mẹ, trông ngóng như
trời trăng. Ðó là để
thiên hạ vào chỗ yên vậy.
Lại đáp,
" Việc trị loạn là do quan chức,
được người thì trị,
mất người thì loạn. Thần
từng xem qua các triều vua chúa đời
trước, chưa từng có triều
đại nào, không dùng bậc quân
tử mà được thịnh, không
dùng kẻ tiểu nhân mà suy.Cho đến
nỗi như thế, không phải là nguyên
nhân một sớm một chiều, mà
chỗ đó do lai đã lâu lắm
vậy. Trời đất không thể
bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức
là tuần tự có xuân, thu. Ðấng
quân nhân ( không thể ) bỗng nhiên
trở nên hưng vong, tất là từ
từ có thiện, ác. Thánh chúa
đời xưa vì biết nó như
vậy, nên nương theo cái đức
không nghỉ của đất để
yên người. Sửa mình tất
cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi
trên băng mỏng. Yên người
là kính trọng kẻ dưới, sợ
hãi tựa leo bám dây mục. Làm
thế thì không gì là không hưng,
trái thế không gì là không
suy, sự lần hồi của việc hưng
vong, chính ở nơi đây vậy
" ( Trích " Tổng tập Văn Học Phật
Giáo tập 3 của Lê mạnh Thát trang
326, 327)
Ðó là những
khuôn vàng thước ngọc cho những
người lãnh đạo hôm nay.
Chế độ Cộng sản ngày càng
lòi ra những khiếm khuyết trầm
trọng vì sử dụng quá nhiều
bọn tiểu nhân vô liêm sỉ và
chế độ này sẽ sụp đổ
vì không có một cơ cấu thanh
lọc hữu hiệu để loại trừ
những thành phần xấu xa, sâu
dân mọt nước này.
Trong giai đoạn hiện
hành, những người đấu
tranh cho dân chủ vẫn chỉ là những
cá nhân bộc phát, những nhóm
tự khởi, tản mạn khắp đất
nước, trước khi lịch sử
cho phép hội đủ các yếu tố
để có thể lập được
những đảng đối lập hợp
pháp. Chuyện nhà cầm quyền Cộng
sản cho dựng bức tường
lửa ( firewall) thì cũng chỉ ngăn
chặn phần nào tin tức từ
quốc ngoại mà thôi Nói chung Dương
thu Hương cũng lên án thái độ
hèn yếu nhu nhược cuả số
đông nhưng cũng nhận thấy có
những cá nhân đơn lẻ bắt
đầu đứng lên tranh đấu
cho dân chủ. Bao nhiêu năm trời
sống trong sự trù dập bằng tù
lao bằng bạo lực, những mầm
mống đối kháng dường
như bị thui chột, tàn lụi nhưng rồi
người này ngã xuống thì
có người khác đứng
lên và điều đó chứng
tỏ cho Cộng sản Việt Nam thấy rằng
chúng không thể dùng bạo lực
để khuất phục công lý và
đàn áp tự do, dân chủ.
Số chiến sĩ dân chủ công khai
giờ đây đã lên tới
hàng chục người và số
người còn đứng trong bóng
tối hoạt động còn đông
gấp bội phần. Vấn đề bây
giờ là thông tin giữa những
người tranh đấu làm sao cho hữu
hiệu để khi tình thế chín muồi
sẽ công khai thành lập Ðảng
Ðối Lập hay Tự Do để đương
đầu với bạo quyền trên
con đường giành lại dân
chủ tự do cho người dân. Dĩ
nhiên với thời đại của
điện thư, điện thoại, email, fax thì
Công an Cộng sản có ba đầu sáu
tay cũng không ngăn cản được
những người đấu tranh dân
chủ thông tin liên lạc với nhau.
Ðoạn đường đấu tranh
còn dài và gian khổ nhưng không
phải là không có điểm khởi
đầu đáng mừng và khích
lệ. Mỗi người tùy vào
lương tâm và tài trí cá
biệt đơn lẻ cố gắng góp
phần vào công cuộc đấu tranh
chung là đủ. Một con én không
làm nên mùa xuân nhưng nhiều
con én có thể tạo được
một mùa xuân huy hoàng tươi đẹp.
Nhiều tay thì mới vỗ nên bộp.
Bài học bó đũa muôn đời
vẫn còn nhắc nhở cho những
người đấu tranh về sức
mạnh của sự đoàn kết. Cuộc
tranh đấu hôm nay là sự nghiệp
chung của toàn thể mọi người.
Dù sao, những người đi tiên
phong đứng đầu sóng ngọn
gió, đứng mũi chịu sào
trong giai đoạn khởi đầu đáng
được sự thương mến
và ngưỡng mộ và ủng hộ
của nhân dân. Họ sẽ là những
người lãnh đạo xứng
đáng trong tương lai của đất
nước.
Nhận xét của
Hà sĩ Phu cho rằng hầu hết những
tầng lớp trí thức quân
tử hôm nay trong nước đều
im lặng trước sự đàn
áp tàn bạo của chế độ
Cộng sản là một nhận định
chính xác. Tuy nhiên không phải người
trí thức nào cũng vậy. Cũng
có những người trí thức
bất khuất dám đương đầu
với bạo quyền để đấu
tranh cho hạnh phúc của nhân dân như
Thượng tọa Tuệ Sỹ đã
nhận định trong một bài viết
gửi ra nước ngoài cách đây
không lâu:
" Hoàn cảnh đất
nước Việt Nam như thế cho nên
dân ta phải chịu quá nhiều đau
thương và tủi nhục. Ðối
với giới trí thức nói
riêng, mà xã hội Việt Nam truyền
thống rất tôn trọng, điều tủi
nhục lớn nhất là họ không
thể thay những người dân
thấp cổ bé miệng nói lên một
cách trung thực tất cả những
uất ức, những khổ nhục mà
họ phải chịu. Bởi vì, tại
Việt Nam ngày nay, những người
có thể nói thì ngòi bút đã
bị cong; những người muốn
nói thì ngòi bút đã bị
bẻ gãy.
Nhưng tôi biết
rõ một điều, và điều
đó đã được ghi chép
trong lịch sử: trí thức chân
chính của Việt Nam không bao giờ
khiếp nhược "
Ngày hôm nay đã
có nhiều sách vở, kể cả
sách vở xuất bản trong chế
độ Cộng sản lên án các
vua nhà Nguyễn đã theo chính sách
" Bế quan tỏa cảng" , không phát triển
đất nước theo lời đề
nghị canh tân của những trí thức
thời đại để rốt cuộc
mất nước vào tay giặc Pháp
nay nhìn chính sách bưng bít thông
tin của chính quyền Cộng sản hiện
tại thì cũng không khá gì hơn.
Bọn chúng là dơi, là chuột, chỉ
sống trong hang ổ tối tăm dơ bẩn
và rất sợ ánh sáng của
sự thật, của tri thức của mặt
trời. Bổn phận của những
người đấu tranh hôm nay là
phải đục cho thủng bức tường
bưng bít nầy để ánh sáng
sự thật có thể đến với
những người còn khao khát
kiến thức và tự do.
Hà sĩ Phu nặng
lời phê phán những kẻ
có chút chữ nghĩa trong người
nhưng cam tâm sống nhục trước
cảnh hoang tàn đau đớn khắp
non sông như sau, " Kẻ có dũng thì
ngu dốt, kẻ có trí tuệ thì hèn,
kẻ có trí có dũng thì láu
cá vị kỷ bất nhân. Giữa
một nhân loại phơi phới dân
chủ hôm nay mà chỉ biết biểu
tình vì khó khăn đời
sống, học hành chỉ cốt để
lập nghiệp cá nhân, làm trí thức
mà cứ xum xoe không dám xa rời
bổng lộc! Mấy tấm gương trí
thức can đảm hiện nay mới
chỉ như muối bỏ bể. Với
kẻ thù bên ngoài thì sẵn sàng
liều chết, với kẻ bề trên
bên trong thì sẵn sàng thông cảm
và khuất phục. Ðảng tìm đâu
ra trên thế gian này một Nhân dân
" lý tưởng" như thế ! Nhưng
nói cho công bằng thì Nhân dân
này do lịch sử để lại cũng
chỉ một phần, phần lớn là
do công " tôn tạo" của Ðảng, nhân
dân chỉ là sản phẩm bất khả
kháng, quy tội cho dân là vô nghĩa
). Lịch sử nước mình là
vậy. ( Trích trong bài " Thư gửi
ông Ðỗ mạnh Tri, báo Tin Nhà
( Tháng 3/2000) ). Hà sĩ Phu đã nhận
xét đúng vì những người
sĩ phu quân tử đấu tranh cho dân
chủ tự do hôm nay cũng chỉ đếm
trên đầu ngón tay, lui tới
cũng chỉ mấy tên Hà sĩ Phu,
Nguyễn thanh Giang, Hoàng Tiến, Nguyễn
đan Quế, Phạm hồng Sơn, Lê chí
Quang, Nguyễn vũ Bình…, Trần Khuê..vv..
Cứ xem chuyện Việt Cộng dâng đất
và biển cho Trung Cộng trong những ngày
qua mà giới sĩ phu quân tử
Việt Nam miệng câm như hến thì cũng
đủ thấy giới sĩ phu quân
tử ngày nay ở Việt Nam bạc
nhược, hèn yếu như thế nào.
Số người công khai lên án
chuyện bán nước của Việt
Cộng cũng chỉ lui tới vài chục
người. Nói chung giới trí
thức Việt Nam hiểu hết những
vấn đề tệ hại đang xảy
ra cho nhân dân và đất nước,
nhưng vì nồi cơm quyền lợi
bổng lộc hiện tại mà họ giả
đui, giả điếc và thờ
ơ với sự thống khổ của
đồng bào, quay mặt trước
sự an nguy của đất nước.
Ðây là một thái độ hèn
yếu đáng khinh bỉ và nguyền
rủa lên án. Dĩ nhiên cũng có
những sĩ phu can đảm đáng
quý trọng như Hà sĩ Phu, Nguyễn
thanh Giang đã dấn thân nhập cuộc
tranh đấu dù phải trả giá
bằng sự tù tội, giam cầm. Hy vọng
với thời gian và tình thế
ngày càng chín mùi, sẽ có
thêm nhiều sĩ phu quân tử nhảy
vào cuộc, biến cuộc đấu tranh
từ những tiếng nói đơn
lẻ thành một lực lượng
có tổ chức quy củ để từ
đó mới mong có đủ sức
mạnh vận động quần chúng quật
ngã bạo quyền Cộng sản hiện tại.
Sau cái chết của tướng Trần
Ðộ mới đây, những
người đấu tranh đã công
khai thành lập hội đòi dân chủ
tự do để đương đầu
với bạo quyền.
Sau khi chiến thắng
miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm
1975, bạo quyền Hà Nội đã có
một chính sách thật thâm độc
dã man để trả thù những
người ngã ngựa miền Nam.
Khi kêu gọi tập trung cải tạo, họ
cho báo chí loan những lời đường
mật như, " Cách mạng luôn khoan hồng",
" Cách mạng không đánh người
ngã ngựa". Họ còn ra thông báo
cho những người trình diện
cải tạo đem theo 2 tuần lương thực
với chủ tâm đánh lừa
chuyện cải tạo chỉ kéo dài trong
vòng 2 tuần. Khi đã đưa được
những người ngã ngựa
vào tù, họ hành hạ bằng cách
bắt lao động cực nhọc và
cho ăn thật ít để người
cải tạo phải chết dần mòn.
Thời gian cải tạo rêu rao là
2 tuần kéo dài ra bất tận. Sau này
số được tha về cũng thuộc
loại " thân tàn ma dại ". Cộng sản
đã hiện nguyên hình là những
tên tiểu nhân hèn hạ, trả thù
người bại trận một cách tàn
nhẫn. Chúng không học được
câu " dĩ trực báo oán " của
người quân tử khi đối
diện với chuyện ân oán, hận
thù. Chúng đã mất đi một
cơ hội bằng vàng vô cùng quý
báu để hòa hợp và hòa
giải quốc gia. Lý do là khi đắm
mình trong một chủ nghĩa chỉ kêu
gọi chuyện chém giết hận thù
là chủ nghĩa Mác, những người
Cộng sản Việt Nam đã trở
thành những tên cuồng tín, đã
tắm máu đồng bào máu đỏ
da vàng trong sự hận thù để
tôn thờ chủ nghĩa. Ngay khi vừa
chiếm được Sài gòn vào
tháng 4 năm 1975, những người
Cộng sản đã đuổi tất
cả những thương bệnh binh của
phe miền Nam trong Tổng y viện Cộng Hòa
ra ngoài dù nhiều người còn
đang điều trị bệnh tình trầm
trọng. Có thương bệnh binh bị đuổi
ra ngoài mà trên tay cầm bộ ruột
của mình đựng trong bao ny lông!
Cộng sản thật là tàn nhẫn và
khồn nạn đến cùng cực.
Nhà văn Dương thu Hương cũng
đã nhận ra ngay bản chất man rợ
của Cộng sản Việt Nam khi bà vào
miền Nam và phần nào nhìn thấy
không khí tươi mát của miền
Nam và bà đã nói lên điều
này trước đây. Khi làm
chuyện bất nhẫn táng tận lương
tâm này, Cộng sản không còn
đáng gọi là tiểu nhân hèn
hạ nữa mà phải gọi bọn chúng
là loài súc sinh khốn nạn, không
còn biết cách xử sự của
con người dành cho con người,
đối xử tàn nhẫn và độc
ác đối với những người
đang bệnh hoạn đau đớn,
chứ chưa nói đến tình đồng
bào máu đỏ da vàng ruột thịt
dành cho nhau. Sự sụp đổ của
Liên xô và Ðông Âu năm
1991 làm chúng bàng hoàng lo sợ.
Thay vì cải cách dân chủ để
cho đất nước đi lên, chúng
lại càng bám chặt vào cái chủ
nghĩa Mác không tưởng, phản
khoa học đã bị nhân loại đào
thải bằng cách gia tăng sự đàn
áp để cố mong giữ vững
ngôi vị thống trị của chúng.
Nhưng rồi sự tranh đấu của
những nhà thức giả được
coi như là những sĩ phu quân tử
thời đại hôm nay như một vết
dầu loang và càng ngày càng tăng
thêm sức mạnh, hứa hẹn sẽ
tung ra những đòn ngoạn mục để
quật đổ cái bộ mấy cầm
quyền thô bạo, tàn ác của một
bọn tiểu nhân trung ương đầu
sỏ. Một bộ máy mà Trần Ðộ
đánh giá trong nhật ký Rồng
rắn của ông là " tàn bạo còn
hơn Tần thủy Hoàng và dã man
còn hơn chế độ phát-xít
của Hitler".
Cần phải hiểu
thêm một điều là " Không có
tư tưởng cách mạng thì không
có hành động cách mạng" . Không
có một tư tưởng chính trị
chỉ đạo thì cũng khó vận
động quần chúng đứng lên
làm cách mạng. May mắn thay, ngày
hôm nay bản chất phi dân tộc và
bán nước hại dân của Ðảng
Cộng sản Việt Nam đã phơi bày
quá trắng trợn và rõ ràng.
Chỉ cần khai thác và nhấn mạnh
về bản chất tay sai và phản quốc
là đã có đủ một cương
lĩnh để hành động. Dĩ
nhiên yếu tố tài và đức
của người lãnh đạo cũng
là yếu tố quyết định để
đẩy cuộc cách mạng đến
thành công. Phẩm chất tài và
đức của người trượng
phu quân tử khi lên ngôi lãnh
đạo cũng là yếu tố quyết
định cho chuyện thái bình thịnh
trị của quốc gia sau này. Họ sẽ
là những người biết nghe
tiếng nói của quần chúng để
từ đó đề ra những
đường lối thích hợp
để phục vụ người dân.
Ðất nước
sẽ có ngày mai khi tầng lớp
sĩ phu quân tử hôm nay cùng toàn
dân đứng dậy lật đổ
bạo quyền. Khi hòa bình được
tái lập lại, nền giáo dục của
một nước Việt Nam tương lai sẽ
là một nền giáo dục đề
cao và xiển dương những đức
tính của người quân tử
và vạch ra cùng phê phán những
thói hư tật xấu của bọn tiểu
nhân. Một nền văn hóa tốt sẽ
sản sinh ra một lớp sĩ phu quân
tử có đủ cả tài lẫn
đức để phục vụ đất
nước, đồng thời không
tạo điều kiện cho bọn tiểu nhân
sinh sôi, nẩy nở. Nhân nào sẽ
sinh quả nấy và đây chính là
một định luật bất biến trong
dòng lịch sử biến hóa khôn
lường.
Lawndale, một sáng mùa
thu mát mẻ, trong sáng đầu tháng
9-2002
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
(1) Trích trong" Những ghi
chép vụn vặt " của tập thơ " Hoa
địa ngục".
|