Lời Ai Điếu

Lê Phú Khải
 

"Tôi có bà thím, vợ người chú thứ ba, quê ở Chí Chủ, Phú Thọ nơi đại gia đình tôi đi tản cư kháng chiến... Hòa bình lập lại 1954, bà theo chồng về Hà Nội. Bà tự tay thuê mướn, chặt đốn và đóng cả một bè tre nứa, gỗ,... Nhưng cộng sản đã triệt hạ buôn bán, chồng bà lại là cán bộ cao cấp ngành công an nên bà đành phải ở nhà túc thủ... Hàng ngày bà phải đi qua cầu Long Biên gánh nước gạo về nuôi lợn. Đi về hàng chục cây số rất nặng nhọc. Thấy vợ một ông cán bộ cao cấp mà phải lao động quá vất vả như thế (vì làm tự do không được cấp sổ mua gạo) ai cũng ái ngại cho bà. Nhưng bà tuyên bố: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”! Đó là cụm từ lần đầu tiên tôi nghe được trên cõi đời này từ mồm bà thím đáng kính của tôi từ ngày mới giải phóng thủ đô. Sau này đài báo ca tụng ầm ĩ khi nó được cụ Hồ nói vào những năm chống Mỹ sau này... "
 

Ảnh mặt trước, mặt sau của sách

Lời Nói Đầu

Có lần, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện bảo tôi:

– Nhiều người khuyên Nguyễn Khắc Viện nên viết hồi ký. Nhưng tôi nghĩ, mình chưa một lần bị đi tù. Chưa một lần cầm súng ra trận thì có gì mà viết hồi ký…

Cứ như lời ông Viện thì đời tôi, không đáng một xu, vậy có gì để mà viết hồi ký, hồi ức cho thiên hạ cười chê (!)

Nhưng bạn bè nhiều người lại khuyên Lê Phú Khải nên viết một cuốn hồi ký, không thì phí đi (!)

Chả là, trong lúc vui vẻ, tôi thường kể cho bạn hữu nghe những chuyện “cười ra nước mắt” của dòng họ tôi, hoặc những nhân vật mà suốt cuộc đời 40 năm làm báo tôi được tiếp cận, làm việc. Toàn là những “nhân vật lịch sử”, những chuyện đáng ghi lại. Mà những nhân vật đó lại không thích hoặc không có điều kiện để ghi lại. Bạn bè khuyên tôi nên viết lại những chuyện mà tôi biết…

Chẳng hạn, như chuyện ông nội tôi làm vaguemestre (nhân viên bưu chính) cho Toàn quyền Đông Dương như thế nào? Ông nội tôi theo Toàn quyền Maurice Long và vua Khải Định đi hội chợ Marseille năm 1922 và phiên dịch cho Khải Định trong chuyến đi ấy như thế nào? Hay là, chuyện chú tôi, tướng Lê Hữu Qua (Lê Phú Cường) có thời gian lái xe và làm garde-corps cho cụ Hồ những năm đầu Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Hoặc, một người chú khác của tôi là nhà báo Lê Phú Hào làm phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ và Kissingertại hội đàm Paris như thế nào? Hoặc chính tôi, từng tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong những chuyến đi công cán tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau này, ông Kiệt thường kêu tôi đến nhà riêng khi ông đã thôi làm Thủ tướng, để nói chuyện, tạm gọi là “tâm sự” như thế nào? Hoặc chân dung những nhà đấu tranh dân chủ mà tôi có dịp tiếp kiến, giao du như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sỹ Phu…

Những truyện trên không ai hay cả, nhưng là “những tư liệu quý” như bạn bè tôi nói, cần cho hậu thế đọc và suy nghĩ về một thời kỳ đáng nhớ của đất nước tươi đẹp nhưng đau khổ này! Bạn tôi, toàn những người khó tính, vậy mà họ lại thích thú nghe thì có lẽ cũng nên ghi lại thật. Và cũng chỉ người “quen tay” cầm bút mới đủ kiên nhẫn để ghi lại những trang viết này trong lúc thiên hạ đua nhau đi kiếm tiền bằng đủ mọi cách, kể cả các nhà văn chửi bới nhau để tranh một cái giải thưởng… vài trăm triệu lúc này! (5/2012)

Tôi thử kể một đoạn “hồi ký” dưới đây để bạn đọc yêu mến của tôi coi có được không? Bằng không thì hãy vứt ngay cuốn hồi ký này vào sọt rác…để khỏi rác nhà!

(…Trích).

“Ông nội tôi hỏi: Cháu có biết vì sao các nhân viên ở Phủ toàn quyền gọi quan toàn quyền Đông Dương là “quan Bẩy” không? Nói rồi, ông nội tôi giải thích, bởi vì tên quan võ chỉ huy quân đội Pháp trên toàn cõi Đông Dương được gọi là quan Sáu. Toàn Quyền còn hơn cả quan Sáu nên mới được gọi là quan Bẩy. Quan Bẩy Toàn quyền là người rất nghiêm nghị. Phòng làm việc của ngài ở Phủ toàn quyền là một căn phòng rộng, hình chữ nhật, dài như một cái toa tàu. Bureau của ngài ở cuối phòng, trước mặt có kê một chiếc bàn dài và hai hàng ghế để dùng vào những lúc hội họp. Ai được phép vào phòng của ngài rồi phải đi một quãng dài mới tới chỗ quan ngồi. Một lần – vẫn lời ông nội tôi kể – tao đang ngồi làm việc ở cái bàn dài trước mặt ngài thì một tên quan Tư người Pháp được phép vào báo cáo. Tên quan Tư đi kiểu nhà binh, đến trước mặt quan Bẩy, nó dậm chân rồi giơ tay chào cũng kiểu nhà binh. Quan Bẩy vẫn cặm cụi viết, không hề để ý đến tên quan Tư. Mấy phút trôi qua trong yên lặng. Thấy tên quan Tư người Pháp phải đứng, tao thì ngồi nên sợ thằng quan Tư ngượng. Tao vội vàng đứng dậy … xem bức tranh trên tường. Bỗng quan Bẩy nói:

– Mày không phải giả vờ xem tranh, tao chưa cho nó ngồi, thì nó chưa được ngồi. Mày cứ ngồi xuống ghế mà làm việc đi (!)

Quan Bẩy là vậy đó. Nghiêm lắm. Lúc làm việc, đi kinh lý đâu ngài cũng đem theo các kỹ sư, các chuyên gia đi theo. Xây dựng công trình gì, trồng cây gì, nuôi con gì, ra chỉ thị gì… ngài đều gọi các nhà chuyên môn đến hỏi rồi mới quyết định. Không những thế, trong sổ sách tài liệu đều ghi chép rõ ràng ý kiến tham mưu của các nhà chuyên môn, để sau này sẽ truy cứu trách nhiệm. Vì thế các chuyên gia đi theo ngài làm việc rất nghiêm túc, khi được hỏi để toàn quyền ký một quyết định gì, họ đều đắn đo suy nghĩ rất kỹ… vì tất cả trách nhiệm sau này là họ phải gánh chịu…

… Nghe ông nội tôi kể về cách làm việc của Toàn quyền Đông Dương tôi nghĩ đến các vị lãnh tụ cộng sản nhà ta sau này đi kinh lý mà thấy buồn cười. Khi có ngôi vị cao rồi, các vị ấy tự cho mình là hiểu biết tất cả. Chắc các vị ấy nghĩ rằng, trong chiến tranh ác liệt như thế, các vị ấy còn thắng nữa là bây giờ, việc gì các vị ấy chẳng quyết được. Tôi nhớ, vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, khi tổng bí thư (TBT) Lê Duẩn vô thăm tỉnh Tiền Giang. Ban thường vụ tỉnh ủy lúc đó đứng đầu là bí thư tỉnh ủy Chín Hải (tức Lê Văn Phẩm), và chủ tịch tỉnh Sáu Bình (Nguyễn Công Bình) dẫn TBT Lê Duẩn vô thăm vùng Đồng Tháp Mười thuộc địa phận Tiền Giang (90.000 ha). Đứng trước cánh đồng bao la bát ngát của vùng Đồng Tháp Mười, TBT Lê Duẩn chỉ tay về cánh đồng trước mặt, hỏi:

– Trồng những cây gì thế kia?

Bí thư tỉnh ủy Chín Hải lễ phép trả lời:

– Thưa tổng bí thư, đó là rừng tràm ạ. Bỗng mọi người sửng sốt khi nghe TBT quát:

– Ngu! Ngu! Sao không trồng lúa!!!

Trước cơn giận dữ của TBT vì sao tỉnh lại không trồng lúa ở Đồng Tháp Mười mà lại trồng tràm… thì mọi người chỉ còn biết chết lặng mà thôi. Ai dám cãi lại? Ai dám cả gan giải thích cho đồng chí TBT rằng, đất Đồng Tháp Mười là đất phèn nặng, chỉ trồng tràm là hợp nhất mà thôi. Từ lúc TBT quát tháo như thế, không khí của đoàn trầm lặng. Hầu như không ai nói gì cả. Khi TBT Lê Duẩn đi rồi, tôi nghe rõ tiếng than của bí thư tỉnh ủy Chín Hải:

– Ông Ba (tức Lê Duẩn) quay cờ rồi (!)

… Có lần, ông nội tôi bất ngờ hỏi: “Cháu có biết ở hội chợ triển lãm thuộc địa Marseille, các nước thuộc địa của Pháp mở các quán ăn trong gian hàng hội chợ của mình để khoe với khách các món ăn ngon của xứ sở mình … thì món gì đắt hàng nhất tại hội chợ không? Nói rồi ông nội tôi kể tiếp: Món bún chả Việt Nam luôn luôn đông nghẹt khách vào ăn. Thịt nướng thơm phức, khói bay nghi ngút từ những cặp thịt nướng bốc lên lời mời chào quyến rũ nhất của gian hàng ăn Việt Nam. Các bà đầm đều hỏi sao thứ nước chấm bún chả thơm ngon lạ lùng thế? Cháu có biết vì sao không? Đó là vì có vị cà cuống! Nước mắm cà cuống mà!”

… Tướng Lê Hữu Qua là một người cương trực, mỗi lần tôi có việc gia đình phải lên Bộ Công An gặp ông, nhằm lúc ông vui vẻ, thường được ông kể cho nghe về những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, mà theo lời ông, lúc đó tình thế cách mạng “nghìn cân treo sợi tóc!” Lần ông kể cho tôi nghe chuyện lái xe cho cụ Hồ, khi ông cụ từ hội nghị Fontainebleau về… Giọng tướng Qua chậm rãi: Hôm đó tàu cập cảng Hải Phòng, ông cụ đi xe lửa về ga Hàng Cỏ. Lúc xuống ga chúng tôi bì mật đưa ông cụ ra xe ô tô. Tôi lái cho cụ đi vòng vèo các phố trước khi về cơ quan để đánh lạc hướng bọn phản động. Trong khi đó thì một trinh sát của ta, đóng giả cụ Hồ đi diễu hành ngoài phố, trên xe mui trần để đồng bào chào đón, hoan hô. Vậy mà bọn Việt quốc và Việt cách vẫn đánh hơi được. Họ không nhằm vào “cụ Hồ giả”, mà săn lùng cụ Hồ thật. Lúc bấy giờ xe đang chạy ngon trớn, bỗng nghe thấy tiếng súng nổ từ phía sau. Chúng bắn vào lốp xe. Kinh nghiệm lái xe nhiều năm cho tôi hay, xe nổ lốp sau vẫn có thể chạy tiếp mà không bị lật. Tôi nhấn ga, xa chạy một quãng dài nữa rồi phanh lại. Tôi lao ra khỏi xe, mở cửa sau để ông cụ chạy. Nào ngờ, chạy được mấy thước, ông cụ lại quay lại xe… Tôi đứng tim vì sợ quá… Thì ra ông cụ quay lại cốt lấy chiếc máy đánh chữ xách tay trong xe ra rồi chạy tiếp. Nhờ có tôi vừa bắn bọn “phản động”, vừa cản đường chúng nên khi nghe tiếng súng nổ liên tiếp, dân quân tự vệ, đồng bào hai bên phố ra đường… nên ông cụ chạy thoát! Thế mà khi về đến cơ quan, tôi thấy ông cụ đang ngồi gõ máy chữ thản nhiên, như không có chuyện gì vừa xảy ra. Thấy thế, tôi cũng không hỏi gì nữa vì lúc đó bận rộn lắm. Ông cụ cũng vậy, không hỏi han gì nữa, không nhắc đến chuyện ấy nữa… Cái hồi đầu cách mạng là thế đó … “Nghìn cân treo sợi tóc” mà! Nhưng sau này có chuyện tức cười là, cái cậu trinh sát đóng vai “cụ Hồ giả” đi diễu phố cho đồng bào hoan hô ấy, đến sau hòa bình 1954, khi cải cách ruộng đất, bị tố là địa chủ gian ác… Nguy kịch quá, cậu ta cãi lại đội cải cách, kể công đóng cụ Hồ giả, sẵn sàng chết cho cách mạng… thành công! Vì thế cậu ta được hạ thành phần xuống phú nông, thoát chết!!!

Câu chuyện trên tôi viết thành một bài cho báo Sài Gòn Giải Phóng, có đăng kèm cả ảnh tướng Qua với lon thiếu tướng công an cho số đặc san ra ngày 2-9-2005, kỷ niệm 60 năm Cách Mạng Tháng Tám và quốc khánh 2-9. Duy cái đoạn đóng cụ Hồ giả và chuyện anh chàng đóng giả thoát chết trong cải cách ruộng đất thì bị tòa soạn cắt đi! Bài báo này tôi vẫn còn giữ làm kỷ niệm.

Ở các nước văn minh thì sau 35 năm, các hồ sơ mật đều được công khai hóa để các sử gia có tư liệu mà viết cho trung thực. Cuốn “Paris-Sài Gòn-Hà Nội” của sử gia Pháp Philippe Devillers viết về cuộc chiến tranh Pháp Việt (1946-1954) được viết nhờ những tài liệu mật được khui ra. Cuốn sách này đã được ông Hoàng Hữu Đản dịch ra tiếng Việt. Trong cuốn sách đó, tác giả Philippe Devillers đã vạch mặt ba tên tướng thực dân lái súng là D’Argenlier, Pigon và Valuy đã bưng bít thông tin với chính phủ Pháp để dẫn đến cuộc chiến Pháp-Việt làm “hủy hoại tất cả di sản và quyền lợi của Pháp ở Đông Dương”. Ở các nước cộng sản độc tài thì không có chuyện khui các tài liệu mật. Ngay cả những chuyện không có gì phải giấu giếm như chuyện tướng Qua kể cho tôi nghe ở trên cũng bị… cấm! Vì thế, khi được báo Sài Gòn Giải Phóng mời viết bài về Cách Mạng Tháng Tám, tôi đã cố ý kể những chuyện do tướng Qua kể lại… cho bài báo thêm phần sinh động, trung thực, hấp dẫn. Nhưng chính báo chí lại tự kiểm duyệt mình một lần nữa, vì thế, đọc báo “lề phải” cứ thấy công thức, nhạt nhẽo, vô duyên không thể “ngửi” được. Tướng Lưu Á Châu ở Trung Quốc có nói một câu nổi tiếng: “Ở Trung Quốc nơi thiếu thông tin nhất là… báo chí!” Sao anh bạn 16 chữ vàng này lại giống ta đến thế!

Ở Bộ Công An, tướng Qua là người ghét cay ghét đắng thứ trưởng Lê Quốc Thân. Theo ông, đây là một phần tử hèn nhát, cơ hội và gian manh. Chính ông Vũ Quốc Uy, nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa đối ngoại của Việt Nam cũng từng nói với tôi về sự hèn nhát của Lê Quốc Thân mà ông được chứng kiến khi Pháp tấn công quân ta đang cố thủ trong nhà hát lớn Hải Phòng hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Uy kể: “Khi tất cả anh em tự vệ đang quyết chiến đấu với Pháp thì Lê Quốc Thân ngồi khóc và sợ quá… đái cả ra quần!” Vậy mà sau này ông ta leo lên đến chức ủy viên trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Công An.

Tướng Qua kể, lúc trúng ủy viên trung ương, thứ trưởng Lê Quốc Thân mỗi lần đến cục tôi làm việc (tức Cục Cảnh sát, Cục Trại giam mà tướng Qua từng làm cục trưởng) thường hoa chân múa tay nói huyên thuyên như “quan điểm” của tôi thế này, “quan điểm” của tôi thế kia… Lúc ấy, tôi nóng mắt lắm. Một hôm không chịu nổi nữa nhưng vẫn giữ sĩ diện cho “đồng chí thứ trưởng” nên lúc tan cuộc họp rồi, mọi người đã giải tán, chỉ còn tôi và thứ trưởng Thân do tôi mời lại. Tôi nói thẳng với ông ta: “Ngày còn ở An toàn khu khi thằng Đỗ Nhuận nó mới sáng tác được bài “Du kích sông Thao”, tối đến nó tập hợp anh em lại để hát thử. Khi nó xướng lên… “Hồng Hà”… thì mọi người ở dưới đều đồng thanh… “mênh mông”… Lúc đó anh chỉ bốc ngô rang ăn, đến nỗi thằng Đỗ Nhuận phải chỉ vào mặt anh nói Lê Quốc Thân “mênh mông” đi chứ, cứ bốc ngô mà ăn mãi thế!!! Chắc anh còn nhớ chuyện đó chứ…? Cái lúc anh bốc ngô rang trong chiến khu sao tôi không thấy anh có “quan điểm” gì… sao bây giờ mới được vô trung ương, anh lắm “quan điểm” thế! Lê Quốc Thân đỏ mặt rồi quay ngoắt đi thẳng. Từ đó y không bao giờ đến Cục tôi để nêu “quan điểm” nữa(!)”.

Tướng Qua là như thế. Tính nóng nẩy, cương trực, nên hay làm mất lòng cấp trên mặc dù công trạng đầy mình. Ông từng phá “Vụ án phố Ôn Như Hầu” nổi tiếng, cứu chế độ cộng hòa non trẻ sau CM Tháng Tám thoát hiểm trong gang tấc. Vậy mà sau này, từ chức vụ Cục trưởng Cục cảnh sát ông phải miễn cưỡng nhận chức Cục trưởng Cục lao cải – tức cục quản lý các trại giam, một chức vụ bị “cách ly” với các vấn đề an ninh ngoài xã hội, không còn liên quan đến toàn bộ hệ thống pháp luật, đến sự minh bạch, công tâm, trách nhiệm cao, thâm niên nghiệp vụ cao của người đứng đầu ngành cảnh sát quốc gia như chức vụ cũ của ông. Vậy mà cũng không yên. Tướng Qua kể khi ông Phạm Hùng làm phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Công An, một lần ông đến Cục trại giam và ra lệnh cho tôi thả một nữ tù nhân đang mang án chung thân. Tôi thưa với đồng chí Bộ trưởng, đây là chuyện pháp luật, tôi không dám. Ông Phạm Hùng nói “pháp luật do ta làm ra chớ(!)”. Tôi đành thưa, xin phép để cho tôi họp Đảng ủy Cục, xin ý kiến Đảng ủy. Ông Phạm Hùng trừng mắt hỏi “đồng chí bao nhiêu tuổi?” Tôi biết không xong rồi, và sau giây phút suy nghĩ , tôi đã trả lời một cách kiên quyết, chấp nhận mọi hậu họa “tôi ít tuổi hơn đồng chí”! Thế là hơn tháng sau, tôi nhận được quyết định nghỉ hưu (!)

Ông Phạm Hùng từng là một người anh hùng như tôi đã biết. Ông từng bị thực dân Pháp kết án tử hình. Trong khám tử hình, ông tỏ ra vô cùng anh dũng, được kính nể. Vậy mà khi có quyền lực không giới hạn thì tha hóa như thế. Đó là con đường của tất cả các lãnh tụ trong một chế độ toàn trị, mà trường hợp Phạm Hùng chỉ là một ví dụ nhỏ. Cả dòng họ Lê Phú của tôi, chỉ có mình tôi là được biết về lý do bị cho nghỉ hưu đột ngột của tướng Qua, vì ông chỉ kể cho có một mình tôi nghe trong một chiều “gió tím mưa xanh”.

Cuốn sách này là những mẩu chuyện như thế!
 

Chương Một

Hà Nội, nơi tôi sinh ra

Lê Phú Khải
Lê Phú Khải

Tôi sinh ra (1942) trong một gia đình công chức tại Hà Nội. Theo ông nội tôi thì nơi chôn nhau cắt rốn của nội tôi là làng Cơ xá nam, ngày nay thuộc phố Nguyễn Huy Tự quận Hai Bà. Làng tôi có từ trước khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Làng có hai dòng họ lớn là họ Ngô và họ Lê. Lý Thường Kiệt họ Ngô (Ngô Thường Kiệt), vì có công nên được đổi sang họ vua (Lý). Nhân 1000 năm Thăng Long, đền thờ Lý Thường Kiệt được tu tạo, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, hiện tọa lạc ở đầu đường Nguyễn Huy Tự ngày nay.

Theo một phả của cụ Đức Quán làm ngày 12 tháng 10 năm Ất Hợi (1815) thì làng tôi vốn trước ở Núi Nùng gần chùa Một Cột. Đến thời vua Thái Tổ nhà Lý (1010), dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long mới dời làng tôi ra bãi Phúc Xá bây giờ. Theo các cụ kể lại thì vua Lý lấy đất làng tôi làm kinh đô nên cho dân “tái định cư” bằng cách thả một quả bưởi xuống dông Hồng, bưởi trôi về đến đâu thì đất làng được đến đó. Ngẫm ra như thế thì chế độ phong kiến ngày xưa tử tế quá. Không đểu cáng như vụ giải tỏa cưỡng chế ở Văn Giang, Hưng Yên (24.04.2012) vừa qua! Vì quả bưởi trôi đến đâu, đất được cấp đến đó… nên đất làng tôi mênh mông, suốt từ Chèm đến tận Khuyến Lương, Thanh Trì. Một lần, vua đi kinh lý trên sông, thấy làng tôi nhà cửa lụp xụp ven sông, dân tình nghèo khó, vui hỏi quần thần “làng kia tên là làng gì”? Quần thần thưa: đó là làng Cơ Xá. Vua thấy thế bèn cho làng tôi cái bãi bồi giữa sông và đặt tên mới cho làng là Phúc Xá (ý vua muốn đổi tên từ chữ CƠ là nghèo, là cơ cực sang chữ PHÚC may mắn hơn). Theo gia phả của họ Lê Phú do ông nội tôi làm tại Phúc Xá ngày 15 tháng 8 năm Ất Tỵ (30.09.1955) lúc cụ 74 tuổi, thấy ghi như sau: Làng ta trước là Yên Xá, tổng Tam bảo, huyện Từ Liêm, đạo Sơn Tây… Từ khi làng ta dời xuống bãi Phúc Xá năm nào cũng bị ngập lụt. Vua Thần Tôn nhà Lý ngồi chơi du thuyền đi qua làng ta, thấy nhà nào cũng ở trên sàn, nên đặt tên làng ta là Cơ Xá, sau mới đổi tên là Phúc Xá. Đến đời Bảo Thái nhà Lê (1723) mới nhập vào xứ Kinh Bắc, Bắc Ninh.

Vật đổi sao dời, bải Phúc Xá bị lở hàng năm nên dân làng hiện nay phiêu bạt nhiều nơi. Nhưng vẫn còn một bộ phận lớn của làng hiện nay đang cư ngụ tại bên bắc sông Hồng thuộc quận Gia Lâm ngày nay. Hiện nay, hàng năm làng tôi vẫn làm hội làng vào ngày mùng 6 tháng 3 AL. Họ Lê Phú… của tôi hiện còn ông quyền trưởng tộc là Lê Phú Dư hiện ngụ tại số nhà 164 đường Ngọc Thụy, phường Ngọc Thụy, Quận Long Biên Hà Nội.

Trừ cái hiện tại là ông trưởng tộc họ, tên Lê Phú Dư và dòng họ Lê Phú… đang sinh sống tại Hà Nội, thì tất cả chuyện “ngày xưa” đều do tôi nghe kể lại hoặc theo các ghi chép từ gia phả. Do đó không chắc gì là chính xác 100% cả. Tuy vậy, đối với dòng họ Lê Phú của tôi thì những gì mà tôi nghe được về cái làng Cơ Xá của mình… nó thiêng liêng lắm, thú vị lắm. Như bất cứ người Việt Nam nào nghe kể về Bà Triệu, Bà Trưng “ngày xưa” vậy!

Dân làng Phúc Xá của tôi đã tham gia xây dựng những công trình lớn của thực dân Pháp hồi cuối TK 19, đầu TK 20 ở Hà Nội. Theo ông nội tôi kể lại thì khi xây cầu Long Biên qua sông Hồng, nhiều dân làng đã chết vì khi xây dựng móng cầu ở độ sâu do thiếu dưỡng khí, nên khi họ được kéo lên mặt nước thì đã chết ngạt từ trước đó. Xin mở ngoặc nói thêm, tháp Eiffel ở Paris được xây dựng cùng thời gian với cầu Long Biên và được khánh thành năm 1889 để kỷ niệm 100 cách mạng Pháp 1789 (với 7000 tấn thép, hơn cầu Long Biên 1000 tấn). Điều đáng nói là tháp được xây dựng ròng rã ba năm nhưng không chết một công nhân nào cả. Trong khi đó, cầu Long Biên được khánh thánh 1902, với số người chết… không tính được. Chỉ riêng chuyện đó thôi, cũng thấy chuyện “nhân đạo” của bọn thực dân.

Bà cụ nội của tôi là Dương Thị Thiết (1858-1937) đã từng làm phụ hồ khi Pháp xây dựng nhà hát lớn Hà Nội. Đến bây giờ tôi vẫn còn thắc mắc là, ông nội tôi, cha mất sớm từ lúc ông có 11 tuổi, mẹ phải đi làm phụ hồ thì làm sao có tiền để nuôi ông nội tôi ăn học… đến trình độ đọc được sách chữ Hán, nói tiếng Tây trôi chảy.

Ông bà nội tôi sinh được 6 người con. Thứ nhất là bà cô tôi, Lê Thị Thọ. Thứ hai là ông bố tôi, Lê Phú Khang, thứ ba là Lê Phú Cường, sau này đi hoạt động cách mạng đổi tên là Lê Hữu Qua, thứ tư là Lê Phú Ninh, thứ năm là Lê Phú An, thứ sáu là Lê Phú hào. Ở Hà Nội (và ở miền Bắc nói chung), con gái không được tính, không “dân chủ” như Nam Bộ nên bà cô tôi không được xếp thứ. Ông bố tôi được gọi là ông trưởng, thứ đến ông hai, ông ba… bà cô tôi được ăn học hết bậc tiểu học, sau đó học trường sư phạm (école normale) ba năm, trình độ tương đương diplome. Ông bố tôi vì ăn chơi không lo học nên thi diplome bốn lần không đỗ, cuối cùng phải sang tận Lào làm thư ký một thời gian. Riêng điểm này thôi cũng thấy chế độ thi cử của thực dân Pháp là nghiêm ngặt. Con nhà khá giả như bố tôi, cha là công chức Phủ Toàn Quyền nhưng không có cửa để đút lót để lấy bằng cấp như chế độ cộng sản thời nay. Người chú thứ tư của tôi là Lê Phú Hào do vừa làm vừa học nên đỗ được bằng tú tài trước Cách Mạng Tháng Tám. Những người chú khác thì không biết học được đến trình độ gì, nhưng nói chung đều nói được tiếng Pháp. Ví dụ như người chú thứ hai là Lê Phú Ninh, gia đình vẫn thấy ông thường xuyên nghe radio tiếng Pháp. Vì thế nên gia đình họ Lê Phú nhà tôi có cái “lệ” rất “humour” là mỗi khi người lớn (các ông) trong gia đình gặp gỡ nhau trong các dịp lễ tết, giỗ chạp, vủi vẻ thì họ nói tiếng Việt, nhưng nếu có sự cãi cọ, to tiếng mắng mỏ nhau… thì từ ông nội tôi đến bố tôi và các chú tôi đều sử dụng tiếng Tây để những người khác không biết họ cãi lộn về cái gì. Cái vốn tiếng tây “Francais sans maitre” của tôi đôi lúc cũng nghe được vài từ, chủ yếu là… chửi thề của các bậc cha chú đó (!)

Ông nội tôi (1881-1967) làm vaguemestre cho Toàn quyền Đông Dương trước CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. Vuguemestre là nhân viên bưu chính của một công sở. Nhưng Toàn quyền Đông Dương có cả một nhóm nhân viên làm việc trực tiếp và chỉ phục vụ riêng về một công việc nào đó cho Toàn quyền mà thôi, trong đó có nhân viên bưu chính. Giống như tổng thống Mỹ ngày nay có đến hơn 90 nhân viên phục vụ trong Nhà trắng cho riêng tổng thống, trong đó có những chức danh như chuyên viên… ống dẫn  nước… chẳng hạn! Có nghĩa là không có chuyện “cúp nước” hay “cúp điện” với Dinh Tổng thống. Cũng giống như thế, ông nội tôi có nhiệm vụ hàng ngày đi ra bưu điện nhận thư từ, công văn cho quan Toàn quyền, rồi lại đi gửi thư từ, công văn của quan Toàn quyền về Pháp. Để làm việc này, cụ có ô tô riêng và có một ông “tây đen” lái xe đi và về! Những điều tôi kể không quan trọng vì kiếm đâu chẳng có một nhân viên để làm những việc đó. Cái chính, như ông nội tôi kể là, sở dĩ quan Bẩy Toàn quyền chọn ông làm nhân viên vaguemestre vì… chữ ông nội tôi rất đẹp. Quan Bẩy rất kén người chữ đẹp để đề bao bì thư cho mình gửi về Pháp. Bây giờ chúng ta được xem những tờ giấy khai sinh của bố mẹ mình thời Pháp thuộc, thì thấy chữ viết được điền vào các tờ mẫu khai sinh thời đó rất đẹp. Đến chọn một nhân viên viết giấy khai sinh ở công sở, người ta còn chọn người chữ đẹp nữa là ở Phủ Toàn Quyền, viết bao thư cho Toàn quyền gửi về mẫu quốc. Cái văn hóa chữ đẹp ấy của người Pháp đã khiến ông nội tôi được quan Toàn quyền Đông Dương chọn làm nhân viên vaguemestre cho mình. Mà ông nội tôi viết chữ đẹp thật! Tôi đã bị ông nội tôi đánh sưng cả tay khi viết tập đồ. Ông nội tôi khi cầm cây bút có hình lưỡi mác chẻ đôi, khi viết có nét đậm nhạt khác nhau tùy theo chủ ý của người viết, chấm mực rồi, không phải đặt bút viết ngay… mà khua cây bút vài dòng để luyện gân tay rồi mới thả ngòi bút xuống trang giấy! Giống như hai đô vật trước khi lao vào đấu vật, họ thường múa vài đường thật đẹp để “diễu võ giương oai” và để làm đẹp lòng khán giả. Nhìn ông nội tôi cầm bút, trước khi viết, múa bút vài vòng như một thứ… “đạo”! Cái chữ đầu tiên của một địa chỉ trên phong bì thư đương nhiên phải viết chữ hoa. Vì thế nét bút đầu tiên phải là một nét phẩy từ dưới lên, rồi mới đến chữ cái viết hoa đầu tiên. Thiếu cái nét phẩy ngược lên ấy thì chữ cái viết hoa đầu tiên trơ trẽn như anh chàng “ở truồng” vậy! Ấy là lời bình của ông nội tôi. Có câu chuyện thú vị thế này. Khi người anh rể tôi là một đại úy quân đội được cử sang Liên Xô tu nghiệp ở học viện quân sự Phơ-run-de sau năm 1954. Một hôm có người báo với đại úy Việt Nam này rằng, anh lên gặp ngay thượng tướng hiệu trưởng trường. Ông anh rể tôi run quá. Một học viện cỡ quốc tế, có hàng nghìn học viên các nước theo họ, cắc cớ gì mà một học viên cấp úy như ông phải lên gặp thượng tướng hiệu trưởng? Vừa đi vừa run. Khi ông anh rể tôi đứng nghiêm giơ tay chào vị thượng tướng theo phong cách nhà binh và … chờ đợi. Bất ngờ vị tướng oai phong đó đặt một bức thư lên bàn và hỏi: Ai viết cho đồng chí bức thư này? Ông anh tôi cầm thư xem và thưa, đây là thư của ông nội vợ tôi viết trả lời sau khi nhận được thư hỏi thăm của tôi. Nghe rồi, vị tướng đó chỉ nói một câu ngắn gọn: Chữ ông nội vợ đồng chí đẹp quá! Rồi cho đồng chí đại úy Việt Nam… ra về!!! Thì ra cái văn  hóa chữ đẹp nó có cả ở bên Nga nữa.

Thế mà bây giờ người ta lại đi học cái “thư pháp” của Tàu, viết chữ Latinh mẫu tự a,b,c theo cách viết chữ tượng hình của chữ Hán thì thật là ngu ngốc quá! Nhìn mấy chữ Việt “thư pháp” trên các cuốn lịch Việt Nam ngày nay người ta phát lộn mửa!

Chuyện ông nội tôi làm veguemestre cho Toàn quyền Đông Dương nhờ chữ đẹp là như thế. Nhưng ngoài công việc của một nhân viên bưu chính cho Toàn quyền, ông nội tôi còn một nhiệm vụ nữa là làm thông ngôn, ngày nay gọi là phiên dịch cho quan Toàn quyền mỗi khi có các quan An Nam ở địa phương lên bẩm báo. Chủ yếu là vào các dịp tết, lễ, các quan tỉnh, quan huyện lên biếu xén quà cáp, đút lót cho Toàn quyền. Nếu các vị đó biếu Toàn quyền 10 thì cũng phải biếu ông nội tôi 1-2… vì sợ ông nội tôi dịch sai!!! Chính vì thế, khi đến tuổi 50, Toàn quyền Đông Dương bảo ông nội tôi theo luật thì công chức sở tây đến 50 tuổi phải nghỉ hưu, nếu mày muốn tiếp tục làm thì tao chuyển cho mày sang ngạch An Nam. Mày sẽ được làm tri huyện, nhưng tri huyện vùng xuôi thì kín rồi. Nếu mày muốn thì làm tri châu (quan huyện ở miền núi) thì tao ký cho mày đi nhậm chức. Ông nội tôi suy nghĩ, nếu làm quan mà không ăn của đút, không bòn rút của dân, thì lấy đâu ra lụa là châu báu, của ngon vật lạ… để đem biếu quan trên như chính mắt ông tôi nhìn thấy. Vì thế, ông nội tôi xin về… Ngày ông nội tôi rời Phủ quyền, quan Bẩy tiển ra tận cổng phủ, bắt tay rất chặt trước lúc chia tay. Vẫn theo ông nội tôi kể, thì đó là lần đầu tiên có một người về hưu mà Toàn quyền tiễn ra tận cổng.

Chắc ông nội tôi phải là một công chức cần mẫn lắm thì mới được quan Toàn quyền “ưu ái” đến thế! Vậy mà, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến toàn quốc sắp bùng nổ, ông nội tôi đã đem toàn bộ gia quyến tản cư lên Phú Thọ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ trường kỳ kháng chiến.
 

Chương Hai

Đi tản cư lên Chí Chủ Phú Thọ

Đại gia đình Lê Phú bao gồm tất cả các người con, người cháu của ông nội tôi lên một toa đen tàu hỏa từ Hà Nội và điểm dừng là ga Chí Chủ. Đây là quê của người con dâu thứ ba của ông nội tôi. Tôi thường gọi là thím Ba. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của gia đình thím Ba mà ông nội tôi mua được một quả đồi tên là đồi Dọc Bùng tại thôn Chí Chủ, xã Chí Tiên huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ. Quả đồi được mau chóng khai phá để trồng sắn, nuôi gà vịt… lấy lương thực theo kháng chiến trường kỳ. Mẹ tôi, một người buôn bán giỏi ở Hà Nội trước đây, đã mở một xưởng làm thuốc lá thủ công) lấy tên là hãng thuốc lá Lương Sơn theo khẩu hiệu “kháng chiến toàn diện” của cụ Hồ. Xưởng thuốc lá phát triển rất tốt. Nhiều con cháu trong họ đã trở thành công nhân làm thuê cho mẹ tôi. Thuốc lá nhãn hiệu Lương Sơn được bán rộng rãi ở vùng tự do lúc đó. Nhưng đến giữa năm 1950, gia đình bố mẹ tôi phải hồi cư về Hà Nội, vì mẹ tôi mang bầu, không thể ngược xuôi buôn bán được nữa. Ông bà nội tôi và gia đình họ Lê Phú vẫn theo kháng chiến đến cùng.

Khi đặt chân lên quả đồi Dọc Bùng ở Chí Chủ, lúc đó tôi mới tròn 5 tuổi và tôi chỉ ở đó cho đến năm 8 tuổi lại theo bố mẹ về Hà Nội sống nhờ bên ngoại giàu có. Nhưng trong ký ức tuổi thơ của tôi, những ngày sống ở Chí Chủ vô cùng thơ mộng, hấp dẫn. Thiên nhiên miền Trung du Phú Thọ với “rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt” đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết. Quả đồi gia đình tôi ở chung quanh là đầm nước. Buổi sáng khi sương còn giăng trên mặt hồ đã có những đoàn thuyền nan bé xíu buông lưới, gõ mạn thuyền đồi cá vô lưới… nhộn nhịp cả một góc rừng. Những chiều mưa đứng trên đồi nhìn xuống mặt hồ mù mịt thấy nao nao người. Tôi thường thẫn thờ chơi một mình ở những “yên ngựa” võng xuống nối liền hai quả đồi. Ở đó có những hòn đá cuội đen bóng như than. Hết thung lũng lại lên những quả đồi sim hoa tím quả ngọt, nhiều khi ăn sim chín đến say sẩm mặt mày. Đẹp nhất vẫn là những đồi cọ. Đứng từ xa nhìn một đổi cọ mới thấy hết vẻ đẹp của miền Trung du. Rừng không âm u rậm rịt mà tươi sáng. Nắng chiếu xuống những tán lá cọ to như cái nia tạo bóng râm bên dưới như mời gọi du khách đến gần. Những tàu cọ non màu trắng ngà xòe ra như đang múa điệu múa miền Trung du sơn cước… Vào mùa hè, ve kêu trong rừng cọ nghe như bản giao hưởng bất tận. Những con ve sầu ở miền Trung du to như ngón chân cái và dài đến mười phân, màu đen nhung có vạch đỏ ngay lưng rất đẹp. Trẻ con địa phương gọi là con cồ cộ. Đám trẻ chúng tôi lấy những cái cần câu nối vào nhau, đầu cầu câu dính nhựa mít có thể dính được những chú cồ cộ đâu trên thân cọ…

Ba năm ở Chí Chủ, ngoài hạnh phúc được thưởng ngoạn thiên nhiên diễm lệ của miền Trung du, tôi còn được chứng kiến cảnh tản cư kháng chiến chống Pháp của dân miền xuôi đi kháng chiến và tình cảm “lá lành đùm lá rách” của đồng bào miền ngược. Gia đình chúng tôi, sau khi mua được quả đồi, nhờ sự giúp đỡ của đồng bào địa phương, làm được một dẫy nhà lá dài, vừa để ở, vừa để làm “xưởng” thuốc lá của mẹ tôi. Đồng bào địa phương gọi quả đồi Dọc Bùng nơi chúng tôi ở là “Trại Hà Nội”. Xung quanh khu nhà ở, gia đình chúng tôi trồng sắn làm lương thực. Đã gần 60 năm rồi mà tôi vẫn nhớ hàng ngày phải đi nhặt lá sắn rụng dưới chân rừng sắn trên đồi để làm củi nấu “cơm”. Sở dĩ chữ cơm phải cho vào dấu nháy nháy, vì nồi cơm có 90% là sắn. Hạt cơm chỉ dính vào các miếng sắn mà thôi. Tất cả mọi người trong gia đình đều phải ăn cơm độn sắn như vậy. Riêng tôi, vì là cháu đích tôn của dòng họ nên được ngồi ăn riêng với ông bà nội tôi, ăn cơm là chủ yếu. Số phận đã cho tôi những ưu ái từ thủa còn bé như thế. Sau này đến lúc về già rồi, một cô em họ trong dòng họ Lê Phú còn nhắc chuyện cũ… Cô em tôi “tố khổ” rằng, hồi còn nhỏ, mỗi khi tôi đi đâu về, ông nội vẫn bắt cô phải cởi giày cho tôi! Chẳng biết chuyện ấy có thật hay không, tôi đành bảo cô em tôi: Thì bây giờ cô ngồi lên ghế để tôi cởi giày cho cô, trừ nợ vậy! Cả nhà đều cười. Chuyện cũ nhắc lại là như thế. Xã hội phương đông là như thế, biết làm sao được!

Ngày ấy ở “Trại Hà Nội” của chúng tôi đã xảy ra một sự kiện gây chấn động cả thôn Chín Chủ vốn yên tĩnh và thơ mộng này. Đó là vụ oanh tạc của bốn chiếc máy bay khu trục Pháp vào trại. Số là, quả đồi mà đại gia đình chúng tôi ở được phát quang, lại dựng những dãy nhà lá to, đẹp để vừa làm nhà ở, vừa làm xưởng thuốc lá. Vì thế, một buổi chiều, bốn chiếc máy bay khu trục cũ của Pháp đi oanh kích ở đâu về, có lẽ chúng còn thừa đạn và tưởng rằng khu “Trại Hà Nội” của gia đình chúng tôi là cơ quan của Việt Minh… nên chúng lao xuống bắn phá. Lúc đó tôi đang thơ thẩn chơi ở trên đỉnh một quả đồi bên cạnh nên nhìn rất rõ bốn chiếc máy bay lượn vòng trên khu “Trại Hà Nội” và từng cái thay nhau lao xuống nã đạn. Cứ thế, thay nhau lao xuống… chừng hơn 10 phút sau, có lẽ là hết đạn nên chúng kéo nhau bay đi. Khi chúng đi rồi, cả khu trại bốc khói mù mịt. Chỉ sau đó ít phút, đồng bào ở các quả đồi xung quanh nhất loạt bơi thuyền sang cứu “Trại Hà Nội”. Có thuyền còn mang cả băng cứu thương, thuốc men… sang cứu trợ. Nhưng may quá, cả gia đình tôi không ai bị thương, dù là bị thương nhẹ. Điều kỳ diệu này là nhờ sự sáng suốt của ông nội tôi. Cụ đã chỉ đạo cho đào hầm chữ chi ngay trong nhà. Khi nghe thấy tiếng máy bay là tất cả mọi người nhảy ngay xuống hầm sâu. Đất đồi cứng, lại khô ráo nên mọi người nằm ép sát xuống đáy hầm, đạn chỉ bắn xéo nên không ai bị dính đạn cả, còn tất cả đồ đạc trong nhà thì tan hoang như một bãi chiến trường. Đã gần 60 năm mà tôi vẫn  nhớ như in những hình ảnh đó. Những chiếc chăn bông để trê giường bị đạn của súng liên thanh bắn xuyên qua, đầu đạn còn kéo theo những nắm bông “nhét” vào các bức tường được làm bằng phên tre. Khi máy bay đi rồi, bọn trẻ con chúng tôi được phân công gỡ những búi bông đó ra để “tái cấu trúc” lại chiếc chăn bông! Các cột nhà là các cây bương (một loại nứa to bằng bắp đùi người lớn) bị dính đạn đều vỡ toác ra. Một con cá chép to treo dưới bếp bị đạn bắn… mất đầu. Và một chi tiết khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên là đôi giày cao cổ bằng da, thứ giầy của hiến binh Pháp (police militaire) đi tuần tiểu bằng mô tô mà ông chú thứ hai của tôi đưa cho ông nội tôi đi…kháng chiến… để dựng đứng ở dưới gầm bàn, bị nhiều vết đạn xuyên qua mà đôi giày vẫn đứng thẳng. Sức đạn đi quá nhanh khiến đôi giày da không kịp… đổ(!) Sự an toàn của gia đình tôi khiến tất cả bà con đến cứu nạn phải ngạc nhiên. Mọi người đều nhận ra sự lợi hại của những căn hầm trú ẩn được đào ngang dọc ngay trong nhà. Nếu hào được đào ở xa, thì khi chạy ra trú ẩn, nhất định sẽ có người bị dính đạn.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, người ta được chứng kiến tình cảm thiêng liêng của đồng bào với chính phủ Việt Minh. Trăm nhà như một. Tất cả đều yêu thương đùm bọc nhau, đoàn kết xung quanh chính phủ Hồ Chí Minh để kháng chiến trường kỳ giành độc lập. Sự đùm bọc của đồng bào địa phương đối với gia đình đi tản cư từ Hà Nội như gia đình tôi đã nói lên sự thật đó. Công bằng mà nói, lúc đó những người cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với những người yêu nước và được nhân dân cả vùng tự do đến vùng tạm chiếm ủng hộ tuyệt đối, trừ những phần tử theo đuôi Pháp. Có những hình ảnh mà tôi không bao giờ quên về những cán bộ của chính phủ cụ Hồ lúc đó. Ông nội tôi có 5 người con trai như đã kể ở trên. Trừ ông bố tôi không hoạt động, còn bốn người chú ruột của tôi đều tham gia hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh. Vì thế gia đình tôi tản cư, đóng ở Chí Chủ Phú Thọ là một địa điểm trung chuyển, nghỉ chân cho các cán bộ Viẹt Minh từ vùng tạm chiếm lên chiến khu Việt Bắc. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, thì người chú thứ nhất của tôi mà tôi thường gọi là chú Hai (thứ hai, sau bố tôi là cả) là giám đốc công an khu 11, tức khu Hà Nội. Khi nha công an trung ương chuyển lên Việt Bắc, thì ông là phó ty trật tự tư pháp, đồng thời là phó giám đốc công an liên khu ba. Có lẽ vì thế mà các đoàn từ khu ba lên Việt Bắc thường nghỉ chân tại nhà tôi ở Chí Chủ, Phú Thọ. Có nhiều lần ông Nguyễn Lương Bằng, có lẽ lúc đó phụ trách tài chính của Đảng, nên thường mang hàng quý của đồng bào khu ba quyên góp cho kháng chiến lên Việt Bắc, đi qua Phú Thọ thì thế nào cũng ghé lại nhà tôi tức “Trại Hà Nội”. Một lần, ông dẫn một đoàn ngựa thồ mang hàng lên Việt Bắc, chủ yếu là thuốc tây, có ghé lại nghỉ ở nhà tôi. Ông có một chiếc khăn rửa mặt đã rách, ông nhờ mẹ tôi khíu lại (có nghĩa là lấy kim chỉ khâu những chỗ đã rách liền lại với nhau. Tôi phải nói rõ từ “khíu” khác với “vá” vị sợ sau này các bạn trẻ không hiểu khíu là cái gì. Cũng như thằng con tôi, nó chỉ biết cái áo mưa, khi nói đến áo tơi thì nó hỏi là áo gì?). Lại nói về ông Bằng. Khi ăn cơm, có một bát cà bung để từ trưa, đến chiều đã vữa mẹ tôi định đem đổ đi thì ông Bằng giữ lại, ông nói để tôi ăn. Trước khi ông đưa đoàn ngựa thồ rời nhà tôi lên Việt Bắc, ông cho mẹ tôi một hộp dầu cù là con hổ phù, tức hộp dầu cù là có hình con hổ chạm nổi ở trên nắp hộp. Mẹ tôi than phiền ông này nghèo quá mà cũng keo quá! Mẹ tôi có hay đâu ông phụ trách tài chính của một đảng đang cầm quyền. Ông có cả đoàn ngựa thồ chở toàn đồ quý, nhưng đó là những thứ đồng bào quyên góp cho kháng chiến, ông không dám tơ hào cái kim sợi chỉ. Sau này bà nội tôi định làm mai mối ông cho em ruột của bà, là một infirmiere ở Hà Nội theo bà đi tản cư chưa có chồng. Nhưng bà trẻ của tôi (theo cách gọi trong gia đình) đã chê ông Bằng nghèo nên… không lấy. Sau đó bà lấy một ông cán bộ lãnh đạo của ty giáo dục Phú thọ. Ông này vợ mất, đã có hai đứa con gái. Khi kháng chiến thành công, ông Bằng làm đến chức phó chủ tịch nước, chúng tôi vẫn nói đùa với bà trẻ phải chi hồi đó bà trẻ chịu lấy ông Bằng thì bây giờ chúng cháu… được nhờ(!)

Bây giờ, nhiều năm trôi qua ngồi nghĩ lại so sánh con người thời đó với bây giờ thấy thật buồn, thật trớ trêu. Khi khởi đầu, Đảng có một lớp cán bộ đáng quý như thế. Nhưng đi theo Chủ Nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa không tưởng rồi tuân thủ cái gọi là “tập trung dân chủ”, đã loại dần những cán bộ tốt ra khỏi guồng máy cai trị của mình khi có toàn vẹn đất nước trong tay, Với tập trung dân chủ, thực chất là độc đoán, độc tài của một nhóm người đã dẫn đến một bộ máy toàn trị đa phần là kẻ xấu như ngày hôm nay. Ngày nay thế hệ trẻ có tư tưởng dân chủ chỉ nhìn thấy bộ máy của Đảng toàn những gương mặt như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Đinh Thế Huynh… và một bộ máy công an hung hãn đàn áp dân chủ… nên họ phủ định hết, không chút nhân nhượng với cộng sản. Họ chưa từng được chứng kiến một ông cán bộ phụ trách tài chính của Đảng dùng một cái khăn lau mặt rách nát trong khi có cả kho của quý trong tay… như thế hệ chúng tôi. Nhưng không trách họ được. Có lẽ, nói về Đảng và chế độ cộng sản ở Việt Nam một cách “toàn cảnh” phải lấy lời của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc ông ở tuổi 82 là công bằng nhất: “Đời tôi là đời một kẻ ngây thơ, phần “thơ” là đi theo cụ Hồ kháng chiến chống xâm lược, tôi giữ nó lại. Phần “ngây” là đi theo CNXH, tôi vứt nó đi. Nhưng nếu phải sống lại, tôi vẫn đi con đường đó…” Đã có lần tôi chép nguyên văn câu nói này đưa cho ông Võ Văn Kiệt, lúc đó đang là cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng coi. Xem xong, ông Kiệt không nói gì cả(!) Vì thế, tôi rất đồng cảm với nhà trí thức đang sống ở Pháp Nguyễn Gia Kiểng khi ông cho rằng, các thế hệ sau này có thể không khắt khe với những người cộng sản lớp trước, nhưng lịch sử sẽ rất khắt khe với những người cộng sản hôm nay. (Tức thời điểm 2012 này).

Tuổi thơ của tôi ở Chí Chủ còn được chứng kiến nhiều hình ảnh khó quên. Nó đeo đẳng tôi cho đến lúc về già. Đó là những ngày mùng 1 Tết, ông nội tôi tập hợp cả đại gia đình trước khoảng sân rộng trước nhà. Mọi người chào cờ. Kéo cờ lên dần đỉnh cột và hát quốc ca. Khi cờ lên đến đỉnh thì quốc ca vừa dứt. Ông nội tôi rút súng lục ra, bắn một phát chỉ thiên để chào mừng năm mới. Chào mừng thêm một năm kháng chiến. Hào hùng lắm! (Súng do ông chú tôi “cấp” cho ông nội tôi). Hồi đầu CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, ông nội tôi cũng có một khẩu súng lục, cũng do ông chú tôi “cấp” nhưng sau đó bị ông chủ tịch xã mượn chắc là để đeo cho oai. Ông chủ tịch xã là ông Minh Tiến, sau làm đến chức thứ trưởng Bộ Công An. Ông ta là một thư lại rất láu cá. Tôi sẽ kể về sau. Cái giấy “mượn” súng có đóng dấu hẳn hoi, đến bây giờ chú em họ tôi còn giữ. Tôi thường được chú giở ra cho xem. Chú em tôi giữ rất cẩn thận và coi như đồ gia bảo. Ở Chí Chủ, lâu lâu các chú tôi đi kháng chiến, mỗi lần có dịp đi qua Phú Thọ lại ghé thăm nhà. Đó là những giây phút vui nhất trong gia đình. Người chú thứ tư của tôi, tôi thường gọi là chú Năm, tính theo thứ tự từ bố tôi là cả (cả, hai, ba, tư, năm) tên là Lê Phú Hào, mỗi lần về nhà ông lại dậy chúng tôi học hát. Khi chúng tôi hát, ông đánh đàn và đệm cho chúng tôi. Người chú thứ ba thì đi bộ đội tên là Lê Phú An. Có một buổi tối, chú tôi đem một tập thơ nhỏ đọc cho cả nhà nghe. Tôi còn nhớ, khi nghe bài “Bầm ơi” của nhà thơ Tố Hữu, mọi người chăm chú nghe, rưng rưng cảm động. Quả thật thời đó con người ta thương yêu nhau lắm. Sau bao năm nô lệ, nước Việt Nam được độc lập ai cũng vui sướng, mặc dù còn thiếu thốn trăm bề:

“Củ khoai củ sắn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Ngớp hụm nước giếng trong đỡ khát
Nhìn trời cao mà mát tâm can…”
(Tố Hữu)

Cái tình người mà Tố Hữu viết như thế là có thật. Đau đớn và bẽ bang thay là bây giờ, no đủ hơn lúc đó, nhưng một nhà thơ cũng rất nổi tiếng là Bùi Minh Quốc phải thốt lên rằng:

“Ngoảnh mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”

Rất nhiều người thời nay khi nhắc đến xã hội Việt Nam kinh tế thị trường định hướng XHCN đã trích câu thơ này của Bùi Minh Quốc như một sự khái quát có giá trị, vì nó nói thay cho tâm trạng của hàng triệu người Việt Nam hôm nay,

Những năm ở Chí Chủ, tôi thấy ông nội tôi nhẫn nại dạy bà nội tôi học chữ. Bà nội tôi mù chữ từ nhỏ, bây giờ nước độc lập rồi, chả nhẽ ông nội tôi lại để vợ mình không biết chữ. Nhưng bà nội tôi tối dạ lắm, không học được chữ. Ông nội tôi đã chỉ dạy bà viết chữ E, tức tên bà nội tôi là Nguyễn Thị E. Nhưng học mãi mà bà tôi vẫn không viết nổi. Tôi còn thấy ông nội tôi viết ba chữ: Hồ Chí Minh thật to để bà tôi nhận  mặt chữ, phòng khi sau này có đi bầu cử thì nhớ không gạch tên đó. Thế là sau này cứ đưa chữ Hồ Chí Minh ra là bà nhận được mặt chữ. Ông nội tôi mừng lắm. Là một công chức mẫn cán của Phủ Toàn quyền Đông Dương, ông nội tôi đã kính yêu chủ tịch Hồ Chí Minh như thế. Đó là sự thật. Nhưng nay, trong lúc tôi đang viết những dòng chữ này, tôi đọc được bài viết của nhà báo Bùi Tín trên mạng Internet bình luận về bài: “Hồ Chí Minh là một người cộng hòa hay cộng sản” của nhà nghiên cứu Nhật Bản, giáo sư Tsuboi Yushiharu. Ông Bùi Tín dẫn ra 24 năm cầm quyền, ông Hồ đã giải thể trường đại học luật, xử chết 27 ngàn người trong cải cách ruộng đất bằng “tòa án nhân dân” thì sao gọi là cộng hòa được? Không có báo chí tự do thì sao gọi là cộng hòa được? Lúc sắp ra đi, ông Hồ chỉ mong được gặp Marx Lenin, không mong gặp tổ tiên thì là cộng sản chứ sao là cộng hòa được?

Nhà văn Phạm Đình Trọng trong một bài viết mới đây nhan đề “Thông điệp tháng Tám”. Sau khi phân tích tất cả những hiểm họa của đất nước đang diễn ra, ông kết luận: “Thế kỷ trước, thế hệ đi tìm đường cứu nước đã lạc đường dẫn đến thế nước hiểm nghèo hôm nay!” Đó là một đánh giá công bằng, khách quan, chính xác. Không ai phủ nhận những người cộng sản thế kỷ 20 không yêu nước. Nhưng đi lạc đường, lạc vào quỹ đạo cộng sản, vậy thôi. Đau xót là vậy. Quỹ đạo cộng sản là cái gì thì đã có ngàn, vạn bài báo, cuốn sách viết về nó, không cần phải nhắc lại.

Ở Chí Chủ đến năm 1950 thì mẹ tôi mang bầu, không thể ngược xuôi buôn bán được nữa nên gia đình tôi phải hồi cư về Hà Nội. Hồi đó, hễ đi kháng chiến mà quay về vùng tạm chiếm thì bị gọi là “dinh tê” về thành. Dinh tê là có lỗi, có tội với kháng chiến nên phải đi lén lút. Mẹ tôi cùng bốn chị em tôi cùng bà cô ruột tôi, gồm toàn thể là đàn bà trẻ con rồi đồi Dọc Bùng trong một đêm tối. Lúc chúng tôi xuống đò để rời đồi Dọc Bùng, bà nội tôi luôn mồm khấn: “Lậy bốn phương trời, mười phương đất… phù hộ cho con cháu tôi đi đến nơi về đến chốn”. Lúc đó, tất cả đều khóc như mưa. Từ cái đêm hôm đó, đoàn hơn 10 người tất cả là đàn bà và trẻ con đã tiến hành một cuộc “vạn lý trường chinh” hơn 100 km từ Chí Chủ, Phú Thọ về Hà Nội. Đêm đi, ngày nghỉ để tránh sự kiểm soát của dân quân du kích vùng tự do Phú Thọ. Trí nhớ của đứa trẻ lên 8 tuổi đã không cho phép tôi nhớ nổi chúng tôi đã đi không biết bao nhiêu đêm trong đói khát lo sợ. Sau nhiều đêm đi bộ, một buổi sáng đẹp trời chúng tôi về đến thị xã Sơn Tây, cửa ngõ Hà Nội, thuộc vùng tạm chiếm. Về Hà Nội, sau một thời gian ở nhà gia đình ông bác anh ruột mẹ tôi, một gia đình buôn bán giàu có ở phố Hàng Buồm, về sau ông bị quy kết là tư sản… chúng tôi may mắn đòi lại được căn nhà ở phố Hàm Long, nơi mẹ tôi có một cửa hàng bán đồ hộp trước kia. Tôi bắt đầu đi học, theo chương trình tiểu học, bắt đầu là lớp năm, lớp tư, lớp ba… cho đến lớp nhất. Vì trước đó đã được ông nội tôi dậy cho biết đọc biết viết nên tôi được nhận vào học lớp tư, không phải qua lớp năm của trường tiểu học Ngô Sỹ Liêm ở phố Hàm Long. Đó là một ngôi trường rất nên thơ với những lớp học tràn đầy ánh sáng, sân trường có những cây bang cổ thụ rợp bóng mát. Ngôi trường đến bây giờ vẫn còn (2012) nhưng được xây lên thành một tòa nhà nhiều tầng, không cân xứng với khuôn viên nhỏ bé của nó như xưa kia. Linh cảm thế nào ngôi trường xinh đẹp này cũng bị phá đi để xây lên cao tầng. Một lần từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi đã đem máy máy tới chụp ngôi trường kỷ niệm này. Tấm hình này tôi vẫn giữ và những chiếu “gió tím mưa xanh” tôi vẫn đem ra ngắm lại ngôi trường tiểu học thời thơ ấu của mình, ôn lại những ngày đầu tiên cắp sách tới trường đầy kỷ niệm.,,

Nếu ở Chí Chủ tuổi ấu thơ của tôi được tắm mình trong thiên nhiên diễm lệ của miền Trung “rừng cọ đồi chè”… của đất nước thì tuổi thơ đi học của tôi ở Hà Nội là những năm lêu lổng nhất. Thời đó không có cái quái thai “học thêm” như thời nay. Sáng đi học, chiều về là tôi cùng lũ trẻ con lê la trên hè phố. Phố Hàm Long với những cây cơm nguội, phố Lò Đức gần đó là những cây sao nổi tiếng, phố Phan Chu Trinh thảm cỏ rộng và những hàng cây sấu cổ thụ… Ba con phố ấy đổ về ngã năm: Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên, Phan Chu Trinh… là “đất thánh” của bọn trẻ chúng tôi. Mùa nào cũng có trò chơi của mùa ấy. Mùa chơi quay, tiếp đếnn mùa chơi đáo, mùa chơi bi… hầu như suốt buổi chiều mỗi ngày chúng tôi đều lê la trên vỉa hè với những trò chơi bất tận đó. Bây giờ những trò chơi của trẻ con ngày ấy đã mất hẳn. Ngoài ra lũ trẻ chúng tôi còn có những trò chơi gắn với bốn mùa xuân hạ thu đông. Mùa hè chúng tôi đi bắt ve sầu bằng cái cần câu có dính nhựa mít. Mùa mưa đi đổ dế. Khi phát hiện một tổ dế, lũ chúng tôi thay nhau đi múc nước cống đổ xuống tổ. Khi con dế không còn chịu được nước ngập nữa, nó phải bò lên miệng hố, thò hai cái râu lên khỏi mặt đất. Chúng tôi lấy que xiên xuống, chặn đường rút lui của nó rồi lần tay xuống lỗ, bắt gọn những chú dế mèn bóng nhẫy… Những con dế đó được nuôi trong những chiếc hộp carton, được cho ăn cỏ non, được phơi sương mỗi đêm… Đến mùa sấu chín, chúng tôi làm súng cao su, nhằm những chum sấu chín vàng trên cây để bắn, Sấu chín ngọt lịm như tuổi thơ của tôi trẹn vỉa hè phố phường Hà Nội. Hồi đó Hà Nội còn vắng vẻ, buổi trưa, khi mọi người yên nghỉ trong nhà, tôi và chúng bạn thơ thẩn dưới những hàng cây cơm nguội, những hàng sấu, nghe tiếng ve kêu ra riết trên cành sao mà thú vị, say mê đến thế. Năm ngoái tôi có dịp ra Hà Nội để hẳn một ngày đi bộ tha thẩn trên các hè phố Hàm Long, Phan Chu trinh, Hàn Thuyên, Hàng Chuối, vườn hoa Pasteur, phố Nguyễn Huy Tự ra đến bờ sông… đâu đâu cũng thấy hàng quán lấn hết vỉa hè, xô bồ, hỗn tạp mất hẳn cái yêu tĩnh nên thơ của những biệt thự nhỏ nối đuôi nhau ở các phố Hàn Chuối, hàn Thuyên… năm xưa. Hà Nội bây giờ chẳng đem lại cho tôi cảm xúc gì ngoài cái bệ rạc, bát nháo, nửa quê, nửa tỉnh, ông không ra ông, thằng không ra thsằng… Tôi cũng để ra một ngày lên tận huyện Thạch Thất, Sơn Tây cũ xem cái gọi là Hà Nội mở rộng bây giờ. Thật kinh ngạc. Vùng bán sơn địa với núi đá lởm chởm này bây giờ cũng thuộc về Hà Nội. Vậy là thủ đô nước Việt Nam cũng có cả vùng núi. Hai Bà Trưng theo sử sách nói quê ở Mê Linh. Nay Mê Linh cũng thuộc về Hà Nội. Sử phải cập nhật ngay và viết là: Hai Bà Trưng quê ở Hà Nội…

Các nhóm lợi ích đã phá nát đất nước này một cách không thương tiếc. Hễ ở đâu đất đai có thể chi chác được là chúng làm, bất kể điều gì, kể cả vẽ lại bản đồ đất nước.

Lại nói về Hà Nội những năm 50 đầu thế kỷ trước. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đến giai đoạn này đã chuyển sang thế phòng ngự và tấn công. Quân đội viễn chinh Pháp bắt đầu thua liểng xiểng. Người Hà Nội chứng kiến cảnh binh lính Pháp sau những ngày thua trận ở các nơi về Hà Nội với vẻ chán trường, râu tóc bơ phờ và… sống gấp. Các bar rượu, vũ trường, đèn xanh đỏ lập lòe, nhốn nháo thâu đêm. Cũng nhờ đám viễn chinh này ăn chơi xả láng mà nhiều người cũng kiếm chác được nhờ phục vụ chúng. Có chị bán thuốc lá trước một rạp chiếu bóng kể bán thuốc cho tây một lãi mười. Khi một thằng tây mua gói thuốc, nó đưa tiền chẵn, khi trả lại tiền (miền Nam gọi là thối tiền), đáng phải trả lại mười thì chỉ trả lại một. Nó chẳng đếm lại bao giờ, đút tiền vào túi đi ngay. Nếu thấy nó đếm lại thì… cầm tiền đưa thêm, coi như chưa đưa hết!

Dạo ấy, cứ mỗi lần nghe thấy tiếng máy bay trực thăng trên đầu là lũ trẻ chúng tôi ở các phố Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu… chạy bán sống bán chết ra vườn hoa Pasteur. Ở đó có một bãi đất rộng cho trực thăng hạ cánh. Chúng tôi nhìn thấy từ trên trực thăng các thương binh da trắng, da đen được khiêng xuống để đưa về nhà thương Đồn Thủy (nay là bệnh viện 108) để cứu chữa. Khi trên Điện Biên Phủ xẩy ra thì ở Hà Nội thật nhộn nhạo.

Tin tức đồn đại khắp nơi. Báo bán chạy như tôm tươi. Hầu hết các gia đình trung lưu ở Hà Nội lúc đó đều mua báo hàng ngày để theo dõi tin tức chiến trường. Người ta lo âu, thì thầm vì biết thế nào Pháp cũng thua, Việt Minh sẽ thắng. Người có gia đình theo kháng chiến thì vui mừng, hồi hộp. Một hôm, ông bác ruột, anh mẹ tôi từ phố Hàng Buồm đến chơi, đưa tờ báo cho mẹ tôi coi rồi chỉ tay vào một tấm hình lớn ngay trang nhất và nói: “Em chồng cô bây giờ làm lớn lắm!” Thì ra đó là tấm hình chụp ông Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đại biểu VNDCCH tại hội nghị Geneve về Đông Dương 1954. Đứng cạnh trưởng đoàn Phạm Văn Đồng là chú tôi, Lê Phú Cường (tức tướng Lê Hữu Qua sau này). Sau này tôi mới biết là chú Hai tôi là nhân viên an ninh của phái đoàn Việt Nam tại Geneva, có nhiệm vụ bảo vệ đoàn và trưởng đoàn. Đây là lý do chú tôi thường hay xuất hiện bên cạnh ông Phạm Văn Đồng. Vì thế mọi người cứ tưởng chú tôi làm lớn lắm. Lúc đó mới 12 tuổi đầu, tôi không hình dung ra cái gì sẽ đến với gia đình tôi và Hà Nội. Thế nhưng, cái gì đến đã đến. Ngày 10/10/1954, ngày giải phóng thủ đô thật đáng ghi nhớ. Mẹ tôi là một người buôn bán rất nhạy cảm nên trước đó bà mua tích trữ nhiều cán cờ bằng gỗ, bằng tre xếp đầy nhà. Ngày đó tung ra bán cho người ta làm cán cờ vẫy chào bộ đội về giải phóng thủ đô.

Tôi còn nhớ như in đêm mùng 9 rạng sáng 10/10 ấy cả thành phố giới nghiêm và không ai ngủ cả. Mấy chị em tôi dán mắt nhìn qua khe cửa. Trong ánh sáng vàng đục của những ngọn đèn đêm, tôi thấy những tên lính Pháp cao lớn đi tuần. Gần sáng, lính Pháp chốt lại các đầu phố. Nhà tôi ở số 3B phố Hàm Long, tức đầu phố nhìn ra ngã năm Phan Chu Trinh, Hàm Long, Lê Văn Hưu, Lò Đúc, Hàn Thuyên rõ mồn một. Lính Pháp tụ lại ở đầu phố. Khi trời sáng hẳn thì từng tốp bộ đội của ta vai đeo súng từ từ tiến đến chỗ lính Pháp. Những tên lính Tây cao lêu nghêu đứng cạnh bộ đội Việt Minh bé nhỏ chỉ cao đến vai chúng. Họ trao đổi với nhau, bàn giao với nhau những điều gì đó rồi thấy lính Pháp từ từ rút lên phía nhà hát lớn theo đường Phan Chu Trinh. Khi lính Pháp rút rồi, chỉ còn lại bộ đội ta thì tất cả các cánh của bật tung, nhân dân hai bên phố ùa ra đường với cờ đỏ trong tay reo mừng hoan hô các anh bộ đội. (Dĩ nhiên các cán cờ là của mẹ tôi bán cho họ).

Nếu tôi không ghi lại cái sự việc có thật này về cái đêm mùng 9/10 năm đó, thì sau này các sử gia, các nhà tiểu thuyết lịch sử khó hình dung người Hà Nội làm gì, nghĩ gì, đường phố Hà Nội diễn ra điều gì trong cái giờ phút lịch sử đó. Bởi lẽ, những người Hà Nội chứng kiến lúc quân Pháp rút lui lúc rạng sáng ngày hôm đó chắc không còn mấy người và cũng chẳng ai làm cái việc lẩn thẩn là ngồi ghi chép lại những sự việc đó trong khi mọi người đang điên rồ kiếm tiền, cố tồn tại trong cái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN này! Cũng cần phải nói thêm là, trước ngày 10/10/1954 cả mấy tháng, đã có các cán bộ Việt Minh vào thành phố, tá túc trong các nhà dân vốn là cơ sở của Việt Minh hay các gia đình có người đi kháng chiến. Nhà tôi cũng có một chị tên là Nhân đến ở. Họ có nhiệm vụ giải thích chính sách của chính phủ kháng chiến, khuyên đồng bào không theo Pháp đi Hải Phòng…

Chị Nhân có chồng là cán bộ hoạt động nội thành rất đẹp trai tên là Hồng Kỳ. Mẹ tô đã xếp cho họ ở một căn buồng nhỏ sau bếp nhà và đứa con đầu lòng của họ đã “nên người” ở căn buồng đó. Sau này họ vẫn đi lại thăm gia đình tôi.

Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố. Có những câu chuyện thật cảm động mà tôi biết. Bà cụ Lý Tiếp, người làng Đồng Nhân, quê ngoại của tôi. Cụ có họ xa với mẹ tôi. Cụ sinh sống bằng nghề bán nước mắm rong trên đường phố. Hôm đó có người bảo với bà rằng, con bà là cán bộ chỉ huy cao cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu tôi nhớ không nhầm là đại đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng gì đó… có người làng đã trông thấy con trai bà trên phim tài liệu về Điện Biên khi còn ở vùng tự do. Người cán bộ vô thành kiểu như chị Nhân tôi kể ở trên đã cho bà biết tin như thế. Nhưng bà cụ không tin nên sáng ngày 10/10 bà vẫn đi bán nước mắm. Khi đoàn quân tiến vào thủ đô, bà cụ Tiếp vẫn đòn gánh trên vai chen vào đoàn người đứng hai bên đường tại một cửa ô. Bỗng nhiên bà trông thấy con trai mình ngồi trên xe jeep dẫn đầu đoàn quân. Bà lao ra… hai mẹ con đã ôm lấy nhau… và mọi người đều khóc. Người chỉ huy đó sau này là thiếu tướng Vũ Yên. Tên cúng cơm của ông là Nguyễn Văn Tịch. Mẹ tôi nói ông là người làng của bà. Khi viết những dòng này, tôi cũng cảm động rơi nước mắt khi ngòi bút “chạy” tới đây. Lịch sử đất nước có những giờ phút đáng ghi nhớ như thế. Nhưng, người ta có hay đâu những người hồ hởi mang hoa ném lên những đoàn xe trở đoàn quân chiến thắng kia, chỉ ít lâu sau là nạn nhân của những cuộc cải tạo tư sản. Ở nông thôn là cải cách ruộng đất đẫm máu.

“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm”. Nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả rất đúng chân dung của con người Việt Nam từ thành thị đến nông thôn sau chiến thắng Điện Biên trong bài tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất”. Ông viết: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận”. Viết đến đây tôi chợt nhớ có lần đọc được bài viết của một phóng viên người Pháp nhiều năm sống ở Trung Quốc. Khi quân giải phóng nhân dân Trung Hoa vượt sông Trường Giang đuổi quân Tưởng Giới Thạch khỏi lục địa, thu Trung Quốc về một mối, tác giả đã từ Hồng Kông qua lục địa và chứng kiến cảnh nhân dân vui mừng chào đón một tương lai tốt đẹp như thế nào. Sau đó tác giả hạ một câu, đại ý, nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tiếp tục công cuộc “đấu tranh giai cấp” sau đó thì nước Trung Hoa đã không khốn nạn như ngày nay.

Việt Nam chẳng khác gì Trung Quốc, hay nói cách khác là giống nhau như hai giọt nước. “Đấu tranh giai cấp” đã tàn phá tất cả những gì tốt đẹp mà nhân dân Việt Nam đã đổ xương máu để giành được cho đến ngày chiến thắng Điện Biên Phủ.

Cải cách ruộng đất đã đưa những ông bà nông dân mắt toét răng đen không biết chữ lên làm chánh án những “tòa án nhân dân”, có quyền phán quyết án tử hình và nạn nhân bị đem bắn ngay sau đó. Những thước phim tư liệu do chính quyền quay mà tôi đã được xem, mỗi lần nhớ đến vẫn khiến tôi lạnh xương sống. Tên địa chủ được lôi ra đấu tố, ra xét xử đi giữa hai du kích đi chân đất và cầm súng chĩa vào mình.Và, tên địa chủ ấy cứ run cầm cập khi nhìn thấy cái cọc tre đã được đóng sẵn để lát nữa trói mình vào đó để xử bắn! Chưa cần xử, nạn nhân đã biết trước hình phạt dành cho mình. Xem những thước phim cho thấy, chỉ sau vài loạt hô đả đảo của quần chúng đang điên rồ trong cơn phấn kích là “phạm nhân” đã bị trói nghiến vào cái cột tre, rồi sau loạt súng nổ, người ta bu lại để xem tên “phạm nhân” nghẹo cổ. Đạn xuyên thẳng vào tim. Cả xã hội miền Bắc đã lên cơn nhập đồng cuồng điên trong cuộc đấu tố bắn giết kéo dài đó. Thật khó có thể giải thích những người nông dân nghèo khổ, hiền lành, nhẫn nhục, sống với nhau bao đời trong các làng quê được bao bọc bởi những lũy tre xanh hiền hòa kia… bỗng có ngày họ bị Đảng Cộng sản cho uống thuốc kích độc, kích ác, kích bạo, kích tham… những độc dược dán mác “đấu tranh giai cấp” hay “Mác-Lenin”… để một chị con gái có thể nhẩy chồm lên chỉ vào mặt bố đẻ của mình mà hét: Thằng kia, mày có biết tao là ai không? Và người cha đẻ của chị khúm núm run rẩy thưa: Thưa bà, bà là con của con ạ!!!

Ở Đồ Sơn quê vợ tôi có câu chuyện thương tâm thế này. Một phú nông trong làng, từng chứa chấp Việt Minh hoạt động. Một hôm, có 5-6 cán bộ đang họp trong nhà thì có tin Tây đến vây bố. Chủ nhà nhanh trí hô tất cả trèo lên mái nhà dỡ mái xuống (xem như đang sửa nhà). Thấy cảnh nhà cửa ngổn ngang, mái nhà bị dỡ tung, chúng tin là nhà đang sửa nên có đông thợ đến làm liền rút lui. Thế nhưng, thật trớ trêu ông chủ nhà sau này bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, bị bức cung ông phẫn uất quá cho gọi tất cả các con cái về nhà, dồn vào một buồng rồi tưới xăng để tự thiêu. Chị con gái đã có chồng, có con, quỳ lạy cha xin tha chết để còn sống nuôi con. Nghĩ thương cháu, người ông tha cho con gái sau đó châm lửa thiêu cả nhà. Khi mọi người biết chuyện chạy đến thì những đứa trẻ đã chết đen thui còn xác người vợ trương phồng lên như con bò! Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất (CCRĐ) “long trời lở đất” ở miền Bắc lúc đó đã xử bắn hàng chục ngàn người, đa phần là những người có công với kháng chiến, những phần tử ưu tú nhất ở nông thôn Việt Nam.

Nói về CCRĐ thì nhiều tác phẩm văn học như “Ba người khác” của Tô Hoài; “Bến Không Chồng” của Dương Hướng; “Thời của thánh thần” của Hoàng Minh Tường; hồi ký “Hồ ký một thằng hèn” của nhạc sĩ Tô Hải đã miêu tả khá sinh động, chân thực. Nhưng những truyện về “cải tạo tư sản” ở những thành phố miền Bắc lúc đó ít được viết đến vì nhiều lý do. Là một người sinh ra và lớn lên ở thành thị (Hà Nội), tuy lúc đó chỉ là đứa trẻ 15, 16 tuổi nhưng tôi đã chứng kiến tận mắt cái bi kịch “cải tạo tư sản”. Tuy nó không ghê rợn âm u như thời trung cổ, như CCRĐ. Mặc dù diễn ra sau CCRĐ và rút được kinh nghiệm phần nào nhưng không thiếu những cảnh cười ra nước mắt, kệch cỡm, lố bịch, đểu cáng… chưa từng có trong đời sống của thị dân Việt Nam. Hai gia đình cả bên nội lẫn bên ngoại của tôi đều có những ông chủ bị cải tạo nên tôi biết rất rõ. Giá tôi có được cái tài như nhà văn Dương Hướng thì chắc chắn độc giả đã có được cuốn tiểu thuyết hay như “Bến Không Chồng” về cảnh sắc ở thị thành thời cải tạo tư sản. Tôi đã đọc “Bến Không Chồng” nhiều lần và vô cùng khâm phục tài năng cũng như vốn sống của tác giả về xã hội nông thôn miền Bắc. Nước Pháp đã dịch tiểu thuyết của ông sang tiếng Pháp. Người ta đã chọn một người Pháp giỏi tiếng Việt và một người Việt giỏi tiếng Pháp để cộng tác dịch tác phẩm này. Vì không có tài viết tiểu thuyết, tôn xin kể ra đây các sự việc về cái gọi là cải tạo tư sản thời đó, hy vọng để lại ít nhiều tư liệu cho đời sau

Ông anh ruột của mẹ tôi mà tôi vẫn quen gọi là bác Hai Súy (người thứ hai trong dòng họ) tên thật là Nguyễn Vĩnh Phương. Ông làm nghề thầu khoán. Tôi không rõ ông học đến trình độ gì nhưng tôi thấy ông vẽ được các bản vẽ cho các công trình xây dựng, nay gọi là bản thiết kế. Tôi chắc là ông có tay nghề cao, nên sau này người ta xây dựng sân bóng đá lớn ở Hà Nội là sân Hàng Đẫy, và sửa chữa nhà hát lớn Hà Nội ông cũng được mời tham dự. Có nghề thiết kế trong tay, ông lại nhận thầu khoán các công trình nên là người có của. Ngoài căn nhà ở số 77 phố Hàng Buồm, nơi ông đặt văn phòng làm việc, ông còn có 2,3 căn nhà khác nữa. Trong đó tôi nghe nói, có đến 9,10 phòng sang trọng, mỗi phòng một kiểu đá hoa (trong Nam kêu là đá bông). Khi cải tạo tư sản, những nhà này ông đã “tự nguyện” làm đơn hiến cho nhà nước quản lý vì theo quy định về tiêu chuẩn sử dụng nhà ở lúc bấy giờ, mỗi gia đình chỉ được sử dụng tối đa 120 mét vuông. Bà vợ ông mà tôi thường gọi là bà Hai Súy là một phụ nữ hiếm có. Bà buôn bán rất đảm đang và là một người nhân hậu được cả cộng đồng buôn bán ở Hà Nội lúc đó tôn vinh, ca ngợi. Bà bác của tôi kinh doanh vvề mật hàng bánh kẹo, đặc biệt là bánh trung thu. Hãng bánh trung thu Vĩnh Phương của bà nổi tiếng ở Hà Nội một thời. Từ đầu năm bà đã thu mua các nguyên liệu, tích trữ các mặt hàng cần thiết cho việc sản xuất một lượng bánh kẹo lớn để bán vào dịp trung thu. Từ rằng tháng bảy ta, căn nhà 77 Hàng Buồm dài hun hút nối với một căn nhà khác ăn ra mặt tiền phố Hàng Giấy thực sự trở thành một xưởng bánh kẹo có hàng chục công nhân làm việc ngày đêm. Thời đó chưa có dây chuyền sản xuất bánh trung thu theo kiểu công nghiệp như ngày nay. Tất cả phải đóng vào khuôn gỗ, vì thế tiếng gõ từ khuôn gỗ xuống mặt bàn để gỡ bánh nướng bánh dẻo ra khỏi khuôn của mấy chục tay thợ vang dậy cả khu nhà. Sau dịp bánh trung thu, bác tôi lại tích trữ nguyên liệu để sản xuất mứt kẹo cho tết nguyên đán. Để làm mứt sen ngày tết, bác tôi phải tích trữ hàng tấn sen hạt phơi khô chất trong kho. Các hạt sen này khô cứng như đá. Đến khi làm mứt phải cho vào chảo lớn ninh. Nước đầu phải đổ đi vì nhiều tạp chất. Nhưng từ nước thứ hai trở đi thì mùi thơm của sen bốc lên ngào ngạt. Những chảo nước sen sánh đặc này vẫn phải đổ đi, rất tiếc. Nhiều người đến xin nước sen đặc này về uống. Nhưng ai uống nhiều thì ngủ li bì như chết. Tôi đã có lần uống liền hai cốc nước sen pha đường, ngon ngọt vô cùng nhưng sau đó thì nhủ đến không mở mắt ra được. Phải ninh đến nước thứ ba thì sen mới nở bung ra, làm mứt mới ngon.

Một năm bác tôi chỉ tập trung vào hai dịp tết đó để sản xuất bánh kẹo nhưng công việc chuẩn bị, tích trữ nguyên liệu thì phải làm quanh năm. Có thời gian bác tôi còn đi cả Hồng Kông để nhập đồ sứ cao cấp về Hà Nội bán. Bác tôi còn mưa cả cây đàn piano loại đắt tiền từ Hồng Kông về cho các con. Cây đàn ấy hiện vẫn còn giữ được ở căn nhà phố Hàng Buồm. Bác tôi, một người phụ nữ đảm đang, tài giỏi như thế nhưng dưới chế độ cộng sản thì họ gọi là “con buôn”. Và, cái xưởng bánh kẹo của bà là đối tượng của cái gọi là “công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Xưởng phải vào hợp tác xã và chỉ sau thời gian rất ngắn là tan rã. Thợ thuyền đều thất nghiệp để “mặt nám mắt đen nhìn ngơ ngác” như nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả về giai đoạn này!

Trước khi tiến hành cải tạo công thương nghiệp… một số nhà tư sản ở miền Bắc lúc đó được lùa vào cái gọi là “hội công thương”, một số đại biểu của hội này được đi tham quan học tập ở Thượng Hải bên Trung Quốc về cải tạo XHCN với tư sản. Một trong những người được đi Thượng Hải dịp này mà tôi được biết là ông Quỳnh Phong, một nhà tư sản đi kháng chiến có quen biết với gia đỉnh tôi khi ở Phú Thọ. Ổng đã mở cả xưởng làm ngòi bút, làm khuy áo bằng vỏ trai, vỏ hến… để kháng chiến “toàn quốc”, “toàn diện” như khẩu hiệu của cụ Hồ lúc đó. Cơ sở sản xuất của ông sau này ở Hà Nội cũng bị cướp sạch (!)

Điều tôi muốn nói nhất ở đây về cải tạo tư sản là nó đồng thời phá hoại kinh tế, vật chất của xã hội. Nguy hại hơn là nó còn phá vỡ cả khối đoàn kết dân tộc. Người ta đã gieo rắc vào xã hội, vào đầu óc người dân sự thù ghét người giàu. Họ xem sự giàu có là một tội ác, do đó tìm mọi cách moi móc vu khống cho những người giàu có. Nhìn những người giàu là chỉ do bóc lột mà có. Những gì mà tôi biết được về sự “cải tạo” nhà ông bác tôi ở Hàng Buồm thật chua chát, khôi hài. Người ta đã “bồi dưỡng tư tưởng” cho những công nhân làm thuê cho bác tôi để họ “tố khổ” ông bà chủ. Nhưng có câu chuyện nực cười thế này, trước cửa nhà bác tôi cho vợ chồng ông ba Tàu đứng nhờ để bán mì hoành thánh sinh nhai đã nhiều năm. Khi được đội cải tạo “bồi dưỡng” để bắt ông phải tố ông bà chủ nhà đã “bóc lột” vợ chồng ông như thế nào… cũng may cho bác tôi là vợ chồng người Tàu này rất thật thà và có nhân cách. Ông ta thưa với đội cải tạo là ông bà Vĩnh Phương (tức bác tôi) cho đứng bán quanh năm mà không lấy một đồng xu nào. Thậm chí, tết đem đôi gà sống thiến đến biếu thì ông bà Vĩnh Phương bảo phải đem về, nếu cứ để đôi gà lại thì năm sau không cho đứng nhờ bán hàng nữa! Thế là đội nghe vậy đành chịu. Còn nữa, trong gia đình bác tôi có một người con nuôi tên là M. Câu chuyện của anh rất bi thảm. Nạn đói năm 1945 ấy, mẹ anh đã chết từ lâu nhưng đứa con (chính là anh M này) vẫn bò lên xác mẹ để bú, nhìn thấy thương tình quá, bác tôi bế vào nhà kho cho uống sữa và nuôi M từ đó. Sau này đội cũng “bồi dưỡng” M và yêu cầu anh tố khổ cha mẹ nuôi nhưng anh nhất mực ca ngợi cha mẹ nuôi của mình. Thấy vậy đội không chịu và quyết truy hỏi với những gợi ý: Vì sao những người con đẻ thì được ăn học tử tế, còn anh thì phá ngang không theo học đến đầu đến đũa? Anh M đã trả lời dứt khoát do tôi tối dạ, học không vào nên xin với bố mẹ cho nghỉ học để đi học việc chứ không phải các cụ bắt tôi phải nghỉ học. Anh còn tuyên bố: Bố mẹ nuôi tôi đã cứu tôi từ cõi chết trở về, cho tôi được làm người, tôi không thể nào phản bội được. Nếu không có bố mẹ nuôi tôi cưu mang thì tôi đã chết từ lúc vừa biết bò! Thế là một lần nữa đội đành bó tay! Còn rất nhiều chuyện khôi hài pha nước mắt mà nếu kể ra thì nó phải dầy như cuốn tiểu thuyết nhiều tập mà sức và tài của tôi thì xin chỉ dừng lại ở đây.

Có lẽ cũng do dân trí ở thành thị cao hơn ở nông thôn nên những cuộc đấu tố tư sản không đến nỗi bất nhân, xảo trá, vu khống trắng trợn như ở nông thôn trong CCRĐ. Anh M mà tôi kể, sau này được kết nạp Đảng và làm tới chức giám đốc một nông trường cao su ở Nam Bộ sau 1975. Anh thật xứng đáng là một đảng viên và trường hợp kết nạp này thì Đảng thật là sáng suốt.

Bên họ nội của tôi cũng có một ông bác họ ở Hải Phòng bị cải tạo, đó là ông Lê Đức Ngữ. Bác Ngữ của tôi có một hiệu chụp ảnh khá nổi tiếng ở thành phố cảng ở đường Hoàng Văn Thụ, mặt đường phố lớn. Tiệm chụp ảnh của ông chỉ thuê vài thợ giúp việc và cũng bị cải tạo. Nhà ông họ chiếm làm một cửa hàng cho Sở văn hóa-thông tin. Căn nhà mặt tiền rộng 6 thước này bị ngăn ra 2 mét là đường đi vô lối sau cho chủ nhà còn 4 mét mặt tiền xây thành cửa hàng thuộc nhà nước quản lý. Cho đến bây giờ, tôi ra Bắc đến thăm người anh họ vẫn thấy ông phải ở trên lầu còn căn nhà bên dưới vẫn bị chiếm. Nhiều người góp ý với anh nên đòi lại phần nhà bị chiếm dụng vô lý vì cũng đã có nhiều trường hợp tương tự đã được trả nhà cho chủ nhân nhưng anh tôi rất ngại phải tốn tiền chạy chọt (thì mới được việc) nên đến bây giờ ông vẫn phải ở trên gác, ra vào qua cái ngõ tối om… Nhưng, điều đáng nói hơn là thế hệ con cháu những người bị cải tạo, bị quy là tư sản là tiểu chủ thì luôn kè kè bên mình cái lý lịch xấu và vì thế cứ khổ sở suốt đời. Người con trai cả của bác tôi, vì nhà có xe hơi nên biết lái xa. Đến khi bị cải tạo, anh được nhận vô lái xe tuyến Hải Phòng-Đồ Sơn. Cho đến bây giờ, cháu nội của ông cũng được “ưu tiên” nhận vào lái xe cho xí nghiệp. Vậy là nhà ông ba đời lái xe cho dù con cháu sau này có học hành giỏi giang đến đâu cũng không thể vô các trường trung cấp, đại học của chế độ chỉ vì cái lý lịch tư sản đó!

Đó là truyện của các ông bà buôn bán lớn, được gọi là tiểu chủ, tư sản thời đó. Còn đối với người buôn bán nhỏ, được gọi là tầng lớp tiểu thương như mẹ tôi cũng bị bạc đãi không kém. Trước 1945 mẹ tôi có một cửa hàng bán thực phẩm khô, lúc đó quen gọi theo tiếng Pháp là magasin d’alimentation như đường sữa, phô mai, bơ, bánh kẹo, rượu, hồ tiêu, gạo tám thơm… Bọn tây đầm ở khu Đồn Thủy bờ sông thường qua lại mua hàng của mẹ tôi. Mẹ tôi không biết nói tiếng Tây, nên ông bố tôi ngồi sau màn gió phiên dịch cho bà. Ông bố tôi nói tiếng Tây giọng Việt nên bọn tây đầm kháo nhau là con mẹ Việt Nam này có chồng là tây đảo Corse nên kéo nhau đến mua rất đông. Nhưng chủ yếu là mẹ tôi cân đúng và cân đủ. Sau này, những lúc nhàn rỗi, mẹ tôi thường kể rằng các me đầm khi mua hàng về nhà nó đều cân lại. Vì thế khi cân 1kg đường, cân chỉ đúng lượng rồi nhưng mẹ tôi vẫn cho thêm một thìa nữa nên khi về nhà, con đầm cân lại nó thấy tươi nên kéo nhau đến mua ngày càng đông. Vì thế cửa hiệu của mẹ tôi ở số 3B Hàm Long nhỏ nên có lúc tây đầm đến mua đông quá phải xếp hàng. Trong khi đó, cửa hiệu của tay người Hoa ở số 1 ngay đầu phố, kế sát nhà tôi lại vắng khách. Người chủ Hoa kiều nghi là mẹ tôi bán phá giá, cho người đi rình, nhưng không phát hiện ra điều gì. Khi Nhật vào Đông Dương, bọn tây rã đám, hoảng hốt, chúng đem cả lựu đạn và súng đến bán cho mẹ tôi. Theo yêu cầu của chú tôi, tức tướng Lê Hữu Qua sau này, lúc đó hoạt động bí mật, mẹ tôi cũng mua tất. Những thứ đó được giấu kỹ, rồi các ông Việt Minh đếm đem theo những ống tre to, bửa đôi ra, dấu lựu đạn và súng lục vào đó rồi buộc giả lại làm củi, chở đi từ cửa sau nhà tôi ra phố Lê Văn Hưu. Kế sát nhà tôi là nhà số 5, tiếp đó là 5A, 5B… và nhà số 5D chính là nhà lưu niệm của Đảng cộng sản bây giờ. Sở dĩ căn nhà cố 5D phố Hàm Long này được chọn làm nơi họp kính của chi bộ ĐCS vì nó có cửa sau ăn thông với ngõ Lê Văn Hưu, nơi tập trung nhiều dân lao động nghèo. Nếu có động, họ sẽ rút lui phía sau chạy trà trộn vào khu lao động này.

Bọn tây khi đến mua hàng của mẹ tôi chúng đều nói tiếng Pháp. Nhưng khi Nhật qua, chúng hoảng hốt nên nhiều khi xổ ra tiếng Việt. Có lần nó chỉ tay lên giá hàng bảo mẹ tôi bán cho cái lọ kia. Mê tôi cầm nhầm một cái chai cạnh đó. Nó hét lên: cái lọ bé hơn chái chai, mày hiểu chưa! Thì ra những thằng thực dân này, khi sang Việt Nam làm công việc cai trị chúng đều học tiếng Việt rất bài bản. Nhưng tuyệt đối không nói, chỉ nghe mà thôi. Khi vội vàng nó mới xổ ra tiếng Việt. Mẹ tôi còn cho biết trước khi mãn hạn về Pháp, tây đầm thường đến cửa hàng của bà mua một vài kg gạo tám thơm và ít hồ tiêu về nước.

Khi xảy ra toàn quốc kháng chiến, mẹ tôi đã bỏ cả gian hàng đầy ắp hàng hóa đó để đi theo ông nội, bà nội tôi tản cư lên Chí Chủ, Phú Thọ kháng chiến. Đến 1950, vì mang bầu đứa em gái tôi nên mẹ tôi mới hồi cư về Hà Nội tiếp tục buôn bán. Khi cải tạo tư sản sau 1954, mẹ tôi đang làm chủ cái cửa hàng nhỏ buôn bán tại gia, thì chú tôi bảo: Chế độ mới của ta không có buôn bán, nên chị chuyển hướng làm ăn đi. Thế là phải bán căn nhà phố Hàm Long. Đầu năm 1958 cả gia đình tôi dọn về làng Hoàng Mai, thuộc huyện Thanh Trì. Căn nhà mới mua này có gần 2000 mét vuông đất, có ao hồ để trồng rau, nuôi cá. Từ một người buôn bán, mẹ tôi trở thành người nông dân bất đắc dĩ.

mẹ của tác giả
Bà Nguyễn Thị Phương mẹ của tác giả

Quen buôn bán ở thành phố, khi về nông thôn sống mẹ tôi đã phải lao động rất vất vả khi tuổi đã lớn. Thời kỳ đó buôn bán bị triệt tiêu trên khắp miền Bắc từ thành thị đến nông thôn. Bây giờ ngồi nghĩ lại mới thấy chế độ cộng sản thật điên rồ. Một quái thai của loài người. Thứ chế độ đưa xã hội đã phát triển có sự phân công lao động, có buôn bán giao thông văn minh trở về thời kỳ ăn lông ở lỗ… Tôi có bà thím, vợ người chú thứ ba, quê ở Chí Chủ, Phú Thọ nơi đại gia đình tôi đi tản cư kháng chiến như đã kể trên đây. Bà là người đảm đang, thuộc nhiều ca dao tục ngữ, có khí phách kiên cường. Bà giỏi buôn bán hai mặt hàng là chè và sơn. Phú Thọ là đất “rừng cọ đồi chè” và rừng sơn, một loại cây cho nhựa để làm sơn như cây cao su. Trong kháng chiến bà vẫn ngược xuôi buôn bán nuôi cả gia đình đông con để ông chú tôi đi kháng chiến. Hòa bình lập lại 1954, bà theo chồng về Hà Nội. Bà tự tay thuê mướn, chặt đốn và đóng cả một bè tre nứa, gỗ, rồi cưỡi bè xuôi sông Hồng về đến bãi Phúc Xá Hà Nội là quê chồng để dựng nhà. Nếu được tiếp tục tự do buôn bán sau khi đất nước có hòa bình thì người phụ nữ có chí, có gan như bà giàu có biết chừng nào. Nhưng cộng sản đã triệt hạ buôn bán, chồng bà lại là cán bộ cao cấp ngành công an nên bà đành phải ở nhà túc thủ. Chú tôi xin cho vợ vào làm tạp vụ trong cơ quan Bộ Công An. Được ít bữa bà thấy phát ngán cái thứ cán bộ, công nhân viên hàng ngày thì lãn công nhưng đến cuối năm thì lại tranh nhau “lao động tiên tiến”. Bà bỏ cơ quan, về nhà bên bãi Phúc Xá trồng cây, nuôi lợn. Hàng ngày bà phải đi qua cầu Long Biên gánh nước gạo về nuôi lợn. Đi về hàng chục cây số rất nặng nhọc. Thấy vợ một ông cán bộ cao cấp mà phải lao động quá vất vả như thế (vì làm tự do không được cấp sổ mua gạo) ai cũng ái ngại cho bà. Nhưng bà tuyên bố: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”! Đó là cụm từ lần đầu tiên tôi nghe được trên cõi đời này từ mồm bà thím đáng kính của tôi từ ngày mới giải phóng thủ đô. Sau này đài báo ca tụng ầm ĩ khi nó được cụ Hồ nói vào những năm chống Mỹ sau này. Bà thím tôi thường than với các con: Vì bố anh là cán bộ nên tôi mới phải bó tay thế này… Bà thường phê phán, nhà nước có phải là con bò sữa đâu mà ai cũng xúm vào vắt. Bà đã nhìn thấy sự phá sản của kinh tế bao cấp. Người em dâu của bà là công nhân nhà máy giấy có từ trong kháng chiến ở Ao Châu, Phú Thọ, có chồng là sỹ quan quân đội sắm cho chiếc đài bán dẫn Nhật Bản. Thời ấy làm công nhân mà đã có chiếc đài bán dẫn là giá trị lắm, là sang lắm. Về quê chơi, bà thấy cô em dâu ở tập thể nên mắng cho một chập. Bà khuyên bán cái đài đi mà mua đất làm nhà riêng mà ở, không ai có thể ở tập thể cả đời! Cách đây chừng 2 năm tôi có về Phú Thọ chơi, lên thăm bà Giang (tên bà em dâu của thím tôi), thấy nhà bà xây cất trên một quả đồi rất nên thơ. Bà Giang nói với vợ chồng tôi: Nhờ bà Ba (thím tôi) nhìn xa trông rộng, bảo bán cái đài bán dẫn ngày ấy đi nên tôi mới mua được quả đồi này, làm được cái nhà này, ăn nên làm ra… Nếu không thì bây giờ vẫn chui rúc trong một gian nhà tập thể. Tôi đi vòng ra sau nhà, thấy vườn rau, dàn mướp, vườn xoan, đàn gà ríu rít… mà thầm khen thím Ba của tôi đúng là “nhìn xa trông rộng”. Chưa hết, bà Ba còn có đứa cháu ruột gọi bằng cô, là cán bộ của Bộ Giáo Dục. Năm đó, ông được mua phân phối một chiếc xe đạp Phượng Hoàng của Trung Quốc. Ở miền Bắc trước 1975 mà ai được mua phân phối xe đạp là may mắn như trúng số độc đắc. Bà Ba bảo ông cháu: Nhà anh một lũ con gái, anh không có một tấc đất thì sau này chó nó lấy con anh à. Bà bắt ông cháu phải bán xe đạp đi để mua đất. Hồi ấy, đất rẻ như bèo, xin không có nơi người ta cũng cho vì ai cũng nghĩ sau này lên CNXH thì ai ai cũng ở nhà nhà nước cấp dại gì mà mua đất làm nhà. Nhưng người cháu vẫn nghe cô mình khuyên. Bán chiếc xe đạp đi, ông cháu mua được cả khu đất rộng bên Gia Lâm. Bây giờ, thời kinh tế thị trường, đất đắt như vàng. Các con ông đều có chồng và được chia mỗi đứa một mảnh để làm nhà. Ông nói với mọi người là nhớ ơn bà Ba muôn đời! Ngày trước, mỗi lần thím Ba tôi về quê, thấy đất cát bỏ không nhưng nếu ai khai khẩn thì bị kết tội là tư hữu, bị cấm đoán có khi còn mang họa vào thân. Thấy cảnh quê hương Phú Thọ của mình như thế, bà tuyên bố: Cái nước này rồi sẽ lụi bại! Mà lụi bại thật. Giả sử, nếu Liên Xô không sụp đổ, Việt Nam không đổi mới thì bây giờ chúng ta sẽ như Bắc Triều Tiên, chết đói như rạ. Khi bà thím tôi tuyên bố như thế, nhiều người thời đó không đồng tình. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi thật khâm phục một người nông dân ít học như thím tôi, nhưng do độc lập suy nghĩ, không cần kẻ khác “bao cấp” tư tưởng cho mình nên bà sáng suốt và nhìn xa trông rộng hơn cái Đảng Cộng sản mà ông chồng bà cả đời trung thành phục vụ. Nói cho thật công bằng, thời đó các vị “Nhân Văn Giai Phẩm” cũng đã nhìn thấy, nhưng chỉ vì họ là nhà văn, là họa sỹ… họ công bố tư tưởng của mình, công bố tác phẩm của mình… nên mang họa vào thân. Bà thím tôi chỉ xuất bản tư tưởng của mình bằng lời nói nên không sao. Thật may cho bà.

Tôi muốn mở ngoặc ở đây, kể về một bức biếm họa mà tôi xem được ở một tờ báo của nhóm “nhân văn” thời đó. Bức tranh vẽ một người ngồi ở vỉa hè, anh ta đang lấy cái rìu đẽo chân của mình… máu me chảy ra lênh láng. Thấy vậy có người hỏi: Sao lại đẽo chân đi thế? Anh ta liền chỉ vào đôi giày để bên cạnh và nói: Chân tôi phải đi giày số 41 mà mậu dịch chỉ bán giày đồng loạt số 39… nên tôi phải đẽo chân nhỏ đi cho vừa giày!

Người dân đã nhìn ra sự phá sản của kinh tế quốc doanh từ hồi đó, vậy mà đến bây giờ, khi tôi viết những dòng chữ này thì nghị quyết mới nhất của Đảng vẫn tiếp tục khẳng định “kinh tế quốc doanh là chủ đạo”. Vì thế mới có những Vinashine, Vinaline… Cái đại họa này không biết sẽ còn kéo dài đến bao giờ???

Cuộc CCRĐ, cải tạo tư sản ở miền Bắc đã triệt tiêu những người lao động có năng lực nhất ở cả nông thân lẫn thành thị. Những người có tay nghề cao, có kinh nghiệm quản lý, biết tổ chức sản xuất và kinh doanh. Gia sản của họ bị trưng thu, trưng mua, tịch thu kiểu ăn cướp còn bản thân họ thì bị bắn chết trong CCRĐ, bị bạc đãi ở thành thị. Xã hội ngày ấy bị kéo lùi lại thời trung cổ! Có nhà thơ của nhóm Nhân văn đã khái quát:

“ Tôi đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”

Vậy mà sau chiến thắng 1975, miền Nam lại bị cải tạo tư sản. Một ông chủ xe đò (xe chở khách) ở Mỹ Tho nói với tôi: Khi các ông Việt cộng đến nhà tịch thu mấy cái xe đò của tôi để đưa vô công tư hợp doanh… thì tôi đã biết là các ông ấy sẽ thất bại rồi. Tôi hỏi ông chủ nọ: Vì sao bác biết trước là sẽ thất bại? Ông trả lời: Họ chỉ lấy đi cái xe, còn phụ tùng, đồ sửa xe tôi để dưới gầm giường thì không ai lấy đi cả. Tôi biết ngay là những ông này chưa bao giờ sử dụng xe ô tô cả. Y như rằng, sau này xe nát, kinh doanh thua lỗ, phá sản… Sau ngày đổi mới, xe lại về tay tôi. Tôi lại là chủ xe như bây giờ…

Những người cầm súng giành chiến thắng trong đấu tranh bạo lực sau đó được làm chủ, được chỉ huy nhưng không có nghề ngỗng gì thì làm nát bét kinh tế đất nước như đã thấy. Muốn thành một ông chủ thì ít nhất phải trải qua kinh nghiệm, có mấy đời cha ông làm nghề đó chưa kể phải tích lũy tiền bạc, kinh nghiệm quản lý, trau dồi tay nghề… rồi truyền lại cho con cháu. Thế mà, đùng một cái cải tạo, gia sản giao cho mấy anh chân đất mắt toét vừa ở rừng ra quản lý và chỉ huy thì sự thể ra là như thế. Bi kịch của cuộc cách mạng vô sản, cách mạng công nông là như thế.

Tôi nhớ ngày giải phóng miền Nam, sau này ông Võ Văn Kiệt đề nghị gọi là ngày “thống nhất đất nước”. Nhiều chuyện khôi hài xảy ra ở những đầu tiếp quản. Có anh bộ đội miền Bắc, chưa một lần được được biết thành phố, anh ta theo đoàn quân chiến thắng vào thẳng Sài Gòn. Vô nhà vệ sinh anh nhìn thấy cái bồn cầu bằng sứ trắng lốp, lại có nước ở bên dưới bèn ra chợ mua cá lóc thả vào. Một lát không thấy cá đâu, anh kêu ầm lên là có ai lấy cắp cá của anh… anh không hề biết đó là cái hố xí vì xưa nay anh sống ở nông thôn miền Bắc, chưa thấy nó bao giờ. Một anh nông dân “chất phác” như thế mà giao cho làm cán bộ chỉ huy ở thành phố sau này thì bi kịch sẽ tiếp nối hài kịch là đương nhiên!

[Hết chương Hai]


ảnh bìa sách
 Ảnh bìa sách

NGƯỜI VIỆT BOOKS
LỜI AI ĐIẾU
Tác giả: Lê Phú Khải
Người Việt Book xuất bản lần thứ nhất tại Hoa kỳ, 2016
Bìa và trình bày: Uyên Nguyên
ISBN: 978-1532998782
©Tác giả và Người Việt Books giữ bản quyền

Lời Nhà Xuất Bản

Vào thập niên 50 tại Âu Châu và ngay cả tại Mỹ, phong trào thiên tả lan rộng trong giới trí thức. Tầng lớp có học thời ấy tự hào “phàm là trí thức thì phải thiên tả.” Điển hình là hai triết gia Jean Paul Satre người Pháp, Bertrand Russel người Anh và nữ tài tử Mỹ Jane Fonda. Phong trào thiên tả ngưỡng vọng nhiều tay lãnh tụ cộng sản trên thế giới và xem Liên Xô là “cái nôi” cuộc cách mạng xã hội của loài người. Thậm chí cho tới mãi năm 1989 tại thành phố Bergen – Na Uy, giới trí thức, giới cầm bút hay giáo sư đại học vẫn còn ca tụng Lênin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và ngay cả Pol Pot, tên đồ tể diệt chủng dân tộc Khmer.

...

Đoạn cuối tác phẩm này, Lê Phú Khải tâm sự, ông năm nay đã 72 tuổi, tức là đã sống cả đời trong chế độ Đảng trị. Ông không vào Đảng trong một chế độ Đảng trị thì đương nhiên con đường “tiến thân” là u ám rồi! Ông nói: “Tôi ý thức rất rõ điều này và hoàn toàn bằng lòng, vui vẻ với con đường mình đã chọn, làm một người tự do ngoài Đảng.”

Và những dòng cuối của cuốn sách, Lê Phú Khải viết: “Sáng sớm ngày 14/09/1985 tôi đang ở bến đò Cà Mau chờ đi Năm Căn thì nghe tin đổi tiền. Mới tối hôm trước Đài Tiếng nói Việt Nam (cơ quan tôi làm việc) còn nói ‘Không có chuyện đổi tiền, đồng bào đừng nghe kẻ xấu tung tin đổi tiền’, vậy mà sáng hôm sau 14/09/1985 chính cái đài ấy lại hô hào nhân dân đến các trạm đổi tiền để đổi tiền. Một bà già lớn tuổi ngồi cùng ghe đã chỉ tay lên cái loa đang loan tin đổi tiền ở trên bờ chửi, cái đài này nó nói dóc còn hơn con điếm.”

Lê Phú Khải chấm dứt cuốn sách bằng câu:

“Tôi đã phải sống với ‘con điếm’ ấy cả đời người!”

Rõ ràng, dòng cuối cùng của Lê Phú Khải là LỜI AI ĐIẾU dành cho chế độ toàn trị đang cố bám quyền trên đất nước Việt Nam chúng ta.

Tháng Tư, 2016
Nhà xuất bản Người Việt
Đinh Quang Anh Thái

Nguồn: https://phanba.wordpress.com/loi-ai-dieu/


* Các câu "ăn cắp" nổi tiếng của Hồ Chí Minh, xoathantuong tổng hợp
 

www.geocities.ws/xoathantuong