|
|
tùy
bút
Con
sáo biết nói
Năm
học lớp hai, mẹ dẫn tôi về quê
ngoại ăn giỗ. Cậu Tùng cho tôi con sáo
mới mọc lông măng. Chiều chiều tôi xách
lồng sáo theo lũ trẻ chăn trâu ra đồng
bắt cào cào. Tôi làm theo lời cậu, tập
cho chim ăn mặn để chim
quen không bỏ đi. Chả mấy chốc
con chim đã mọc đủ lông đủ cánh.
Khi nó biết hót, cậu tôi bảo: "Phải
cắt một ít lưỡi thì mới dạy nó
nói được". Tôi ngạc nhiên hỏi
lại: "Vì sao lại như thế?"
Cậu tôi đáp: "Không biết, nghe người
ta bảo vậy". Tôi làm theo lời cậu,
mỗi ngày bỏ ra vài giờ dạy sáo nói.
Mỗi lần nó nói được một câu tôi
lại thưởng cho nó một miếng
chuối hay một con cào cào béo mẫm. Con sáo khá
thông minh, nó nói được cả những câu
dài. Chả mấy chốc tiếng đồn
về con sáo biết nói của tôi lan khắp làng
trên xóm dưới. Không ít người đã
đi hàng chục cây số để tới xem.
Có người trên thành phố trả bố tôi
hai chỉ vàng nhưng bố tôi không bán, "Nuôi
nó cho vui cửa vui nhà...". Thỉnh thoảng nó
vẫn theo tôi ra đồng, lũ trẻ chúng tôi
cởi trần đánh trận giả,
còn nó thì nhảy lên lưng các con trâu
bắt rận. Chiều ấy tôi để ý
thấy đàn chim sáo từ đâu bay tới, chúng
đậu trên lưng các con trâu hoặc nhảy
lên các bờ ruộng tìm bắt cào cào, châu
chấu. Chúng ríu rít bay từ ruộng nọ sang
ruộng kia, con sáo của tôi cứ nghênh
nghếch cái đầu nhìn đàn chim với
sự lạ lẫm và cô đơn. Tôi chìa tay
vẫy nó:
- Sáo ơi,
lại đây...
Nó bay đậu
lên vai tôi, nhưng vẫn nghển cổ nhìn
đàn chim đang ríu rít trên đồng. Tôi
vuốt bộ lông đen mượt của nó
vỗ về:
- Đừng
buồn nữa, chiều nay ta sẽ cho ăn
chuối...
Nó dường
như không nghe thấy tiếng nói của tôi,
đôi mắt đen huyền vẫn đăm
đăm nhìn theo đàn chim. Và tiếng gọi
đồng loại đã mạnh hơn tôi, nó xòe
cánh bay về phía đàn sáo đầu vẫn nghênh
nghênh như chẳng hiểu gì. Đàn sáo thi nhau
hót. Dường như không chịu nổi, con sáo
của tôi cũng vươn cổ: "Nhà có khách...
nhà có khách...". Tiếng của nó làm đàn
chim sững sờ, chúng nhớn nhác nhìn ra xung
quanh. Con sáo của tôi lại tiếp tục:
"Xin chào ông bà... xin chào đại ca...".
Lần này tiếng của nó làm đàn chim
hốt hoảng bay tóa lên, con sáo của tôi nhìn
theo đàn chim ngơ ngác. Trong phút chốc nó cũng
vụt bay theo, vừa bay vừa cất lên
những câu tôi dạy, càng làm cho đàn chim
hốt hoảng bay nhanh hơn. Tôi vừa chạy
theo nó vừa gọi, dường như nó
chẳng nghe thấy tiếng tôi, cứ bay theo
đàn chim. Thế là mất, tôi ngồi xuống
bờ ruộng thẫn thờ nhìn đàn chim
lẫn vào đám mây màu cỏ úa cuối chân
trời. Tôi đánh trâu trở về nhà.
Biết tin này,
mẹ tôi xuýt xoa:
- Biết
thế, hồi ấy bố mày bán quách cho người
ta lấy hai chỉ vàng có hơn không!
Bố tôi thì
bảo:
- Thế là
giải phóng nó khỏi sự tù hãm và khỏi
phải nói những lời nhạt hoét của con
người...
Tôi buồn
vì mất một người bạn thân
thiết.
Ngờ đâu
ba ngày sau con sáo bay trở về, với tấm thân
tả tơi. Rất có thể đồng
loại không chấp nhận nó, một kẻ
lạc loài. Mẹ tôi bảo: "Chắc cu
cậu không quen ăn nhạt". Bố tôi
lại chép miệng: "Thật tội
nghiệp...".
Tôi
nhốt con sáo vào lồng. Con sáo trở nên trái tính
trái nết, nó không chịu học thêm những câu
mới, suốt ngày chỉ nhại đi nhại
lại những câu tôi đã dạy. Ba tháng sau
con sáo chết vì rách họng. Mẹ tôi chép
miệng thở dài. Bố tôi bảo: "Thế
cũng là cách tự giải phóng...". Tôi thì
tiếc ngẩn ngơ, vì từ nay tôi mất
một người bạn. Chị tôi năm
ấy đang học lớp sáu đã ghi vào
sổ tay: "Tuổi của một con sáo
biết nói tiếng người là hai mươi
mốt tháng năm ngày". Tôi chôn con sáo ở
gốc me ngoài cổng, đêm đêm tôi vẫn
nghe tiếng nó cất lên cô đơn trong gió
lạnh.
|