HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
MỤC LỤC:
a. Nếu con người không có khả
năng
b. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu
c. Tự do- cấu tố làm nên lịch sử
Giáo
tŕnh mặc khải thuộc thần học căn bản.
Thần
học căn bản được hiểu là những
giáo tŕnh thần học nghiên cứu những thực tại
đầu tiên và căn bản của Kitô giáo, được
giảng dạy ở năm đầu của
chương tŕnh thần học[1].
Theo nghĩa này thần học căn bản gồm những
giáo tŕnh: Dẫn Nhập Thần Học, Mặc Khải,
Linh Ứng, Huấn Quyền, Đức Tin.
Thần
học căn bản cũng được hiểu như
chức năng phê b́nh và biện minh của thần học,
nhằm cho thấy tính hợp lư và khả tín của mặc
khải[2].
Theo nghĩa này, giáo tŕnh mặc khải này sẽ bàn về
khả thể mặc khải.
Thứ
tự sắp xếp của giáo tŕnh này:
Phần I: Khả thể mặc
khải
Phần II: Mặc khải nơi
Kinh Thánh
Phần III: Mặc khải trong lịch
sử Hội Thánh
Phần IV: Suy tư tổng hợp
về mặc khải.
Giáo
tŕnh “mặc khải” này được soạn nhằm
giúp sinh viên thần học. Người viết mong ước
đóng góp chút ǵ trong việc xây dựng Hội Thánh. Mong
ước rất đẹp nhưng sức bạc tài hèn
không tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả xin
quư độc giả cho lời góp ư để Chúa
được tôn vinh hơn.
Chân
thành tri ân.
Jptl
ĐL. 230338
-----o0o----
Mặc
khải là từ ngữ Hán Việt dùng để dịch
chữ revelatio tiếng latinh và chữ Apokaluyis tiếng Hy Lạp[3].
Mặc
khải là ǵ?
Mặc
khải, theo tự điển của Thanh Nghị, có nghĩa:
“sự gợi cho biết một cách thầm kín và không thể
dùng lư trí để giảng giải được[4]”.
Một số
thần học gia đă trả lời câu “Mặc khải
là ǵ?” bằng những lời khác nhau:
1.
Với N. Jung, “Mặc khải
là Lời Thiên Chúa dạy dỗ và chứng thực”[5];
2.
Theo R. Garrigou- Lagrange, mặc
khải là “Lời Chúa tỏ lộ mầu nhiệm siêu
nhiên và các chân lư tự nhiên của tôn giáo”[6];
3.
Bouillard: “Mặc khải
là sự tỏ lộ của Thiên Chúa về Thiên Chúa và
chương tŕnh cứu độ của Người trong
lịch sử và bởi lịch sử được giải
thích trung thực”[7];
4.
Theo thần học gia tin
lành Karl Barth, “mặc khải là hành vi tối thượng của
ân sủng Thiên Chúa, ở đó Ngài tự thông ban chính Ngài
cho con người biết”[8];
5.
S. Thornton: “Mặc khải
là một cách của hành động thần linh, qua đó
Đấng Tạo Hoá thông ban chính ḿnh Ngài cho con người,
và khi làm như vậy, Ngài mời gọi con người
đáp trả và cùng hoạt động”[9];
6.
Theo Geoffrey Parrinder, khuynh
hướng thời đại ngày nay cho rằng “Mặc
khải là hành vi hay sự tỏ lộ chính ḿnh của Thiên
Chúa”[10];
7.
Với J. Alfaro, “Mặc khải
là sự tự trao ban chính ḿnh”[11];
8.
Theo H. Fries, “Mặc khải
là sự thông truyền siêu nhiên và tự do của Thiên Chúa
trong lời, hành động, và biến cố”[12];
9.
Với A. Dulles, “Mặc khải
là sự tỏ lộ tự do của Thiên Chúa về cái nằm
ngoài tầm với b́nh thường của con người;
Nó là hành động khởi đầu, qua đó Thiên Chúa ra
khỏi sự ẩn dấu của Ngài, kêu gọi và mời
họ đi vào một hiện hữu giao ước”[13];
10.
Với R. Latourelle, “Mặc
khải là Lời Thiên Chúa nói với con người, là thực
tại đầu tiên; tất cả chương tŕnh cứu
độ đều tựa trên mầu nhiệm “Thiên Chúa tỏ
lộ chính ḿnh trong tin yêu”; mặc khải là mầu nhiệm
khởi đầu, mặc khải thông truyền cho chúng ta
các mặc khải khác; mặc khải là sự tỏ bày
chương tŕnh cứu độ mà Thiên Chúa đă ngẫm
nghĩ từ đời đời, và Ngài đă thực hiện
nơi Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 9-10; Rm.16, 25-27)”[14];
11.
C̣n với đức giáo
hoàng Phaolôâ VI, trong thông điệp Ecclesiam Suam, Ngài nói: “Mặc
khải là tương quan siêu nhiên mà Thiên Chúa đă có sáng kiến
thiết lập với nhân loại, nó được diễn
tả như một cuộc đối thoại, trong
đó Lời Thiên Chúa biểu lộ qua việc nhập thể,
và tiếp theo là bằng Tin Mừng...”[15].
Gút
lại, mặc khải là hành vi tỏ lộ và trao ban chính
ḿnh của Thiên Chúa cho con người trong ḍng lịch sử.
Giáo
tŕnh mặc khải này chỉ bàn về mặc khải
nơi Kitô giáo và gác qua một bên những vấn đề
mặc khải nơi các tôn giáo ngoài kitô giáo[16]. Trong
những phần tiếp sau, sẽ lần lượt xem
xét vấn đề khả thể mặc khải, mặc
khải theo Kinh Thánh, mặc khải trong ḍng lịch sử
Hội Thánh, và phần cuối là suy tư thần học về
mặc khải. Trong phần thứ nhất về khả
thể mặc khải, v́ nhằm cho thấy tính hợp lư
và khả tín của mặc khải, nên sẽ dùng thuần
lư trí để xét vấn đề mặc khải và không
nại đến Kinh Thánh và Huấn Quyền như chuẩn
mực đức tin.
Mặc
khải là hành vi Thiên Chúa tỏ lộ cho con người
trong ḍng lịch sử qua những dấu chỉ khả
giác, đặc biệt là nơi Lời nhập thể, về
Thiên Chúa và chương tŕnh cứu độ con người
của Ngài.
Không
có mặc khải nếu không có Thiên Chúa; cũng không có mặc
khải nếu Thiên Chúa tự do không muốn tỏ lộ
cho con người; và cũng chẳng có mặc khải nếu
con người không có khả năng hiểu được
Thiên Chúa hoặc không hiểu được mặc khải.
Nói cách khác, vấn đề khả hữu mặc khải
hàm chứa vấn đề Thiên Chúa hiện hữu và vấn
đề khả năng tri thức Thiên Chúa của con
người. C̣n vấn đề Thiên Chúa tự do có mặc
khải cho con người hay không, tiên thiên mà nói th́ điều
này tùy thuộc Thiên Chúa tự do.
Trong
phần này sẽ cố gắng minh chứng “con người
có khả năng biết Thiên Chúa”, sau đó sẽ bàn đến
khả thể mặc khải, và cuối cùng là môi trường
mặc khải.
Ai
cũng phải nhận rằng nếu thực sự Thiên
Chúa hiện hữu, mà con người phủ nhận, cho rằng
Ngài không hiện hữu, th́ Ngài vẫn hiện hữu. Nói
cách khác, nếu Thiên Chúa hiện hữu th́ Ngài hiện hữu
khách quan không tùy thuộc con người[17].
Nếu
thực sự Thiên Chúa hiện hữu và con người biết
Ngài hiện hữu, th́ điều này hàm chứa con người
có khả năng biết Thiên Chúa. Nói cách khác, nếu minh chứng
được Thiên Chúa hiện hữu thực sự, là chứng
minh được “con ngưới có khả năng biết
Thiên Chúa”.
a. Nếu con người không có khả năng
“Thiên
Chúa hiện hữu”, điều này không được tất
cả chấp nhận. Lược sơ qua lịch sử
tư tưởng, người ta ghi nhận có những lập
trường khác biệt.
i. Gongias (483-375)
Gorgias
chủ trương “không có ǵ cả”, v́ hư vô và hữu
thể đều không thể là những dữ kiện cho
cảm giác được; giả như có ǵ đi nữa,
người ta cũng không thể biết được;
giả như có biết được ǵ đi nữa,
người ta cũng không thể diễn tả chúng nổi[18].
Như
vậy Gorgias phủ nhận tri thức ngoài tri thức giác
quan; phủ nhận tương quan giữa hữu thể,
phủ nhận tương quan giữa lư trí và vạn sự
vạn vật, giữa ngôn ngữ và hữu thể.
ii. Chủ thuyết
hoài nghi
Những
người theo chủ thuyết hoài nghi chấp nhận có
sự chắc chắn chủ quan, nhưng họ cho rằng
không thể chứng minh giá trị khách quan của phán
đoán, và như vậy không thể có sự chắc chắn
tuyệt đối rằng một phán đoán là đúng[19].
Agrippa
tóm luận lư của những người theo thuyết hoài
nghi bằng năm mệnh đề như sau:
1.
Nếu một người theo thuyết giáo điều
khẳng định một điều, th́ luôn luôn người
khác có thể phủ nhận nó (mâu thuẫn);
2.
Nếu người ta muốn chứng minh nó bằng
một nguyên tắc khác, th́ người khác có thể phủ
nhận nguyên tắc này, và cứ như vậy (diễn tiến
đến vô cùng);
3.
Nếu người ta cho rằng một trong những
nguyên tắc này là hiển nhiên không cần chứng minh,
như vậy nguyên tắc đó chỉ có vẻ chân thực
thôi, nếu không th́ phải chứng minh (tính tương
đối);
4.
Nếu người ta từ chối chứng minh nó,
th́ nguyên tắc đó chỉ là một giả thiết có thể
được tranh căi;
5.
Nếu người ta muốn chứng minh nguyên tắc
đó, th́ phải có một tiêu chuẩn để chứng
minh nó, và người ta lại phủ nhận tiêu chuẩn
này. Như vậy lại trở lại như khởi
đầu[20].
Chủ
thuyết hoài nghi không chấp nhận cái ǵ là thật, không
chấp nhận một tiêu chuẩn nào để phán
đoán.
Không
thể chấp nhận nguyên tắc của những người
theo thuyết hoài nghi. Để phản bác thuyết hoài
nghi, thánh Augustin đă cố gắng chứng minh một
chân lư, để qua đó chứng minh thuyết hoài nghi là
sai lầm. Chứng minh của thánh nhân như sau: “Tôi sai lầm,
vậy tôi hiện hữu”. Sau này Descartes cũng làm
tương tự: “Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu”[21].
Nói cho cùng, những người theo chủ thuyết hoài
nghi vẫn không chấp nhận lập luận của thánh
Augustin và của Descartes, v́ họ đâu có chấp nhận
sự kiện “tôi sai lầm” hoặc “tôi suy tư”. Họ
hồ nghi cả sự kiện đó!
Những
người theo chủ thuyết hoài nghi khi đứng trên
quan điểm này, khi đứng trên quan điểm khác
để phê b́nh. Đây là những người đ̣i
người khác phải dùng lư luận, c̣n chính họ lại
không bao giờ chấp nhận tiêu chuẩn nền tảng
để lư luận của người khác! Đây là lập
luận và yêu sách không nghiêm chỉnh. Đối với họ,
không có tri thức chắc chắn chân thực, cao nhất
là có phần chắc
(probable) đúng.
iii. Quan điểm
của Kant
Kant
(1724-1804) bị đánh động mạnh về sự kiện:
· các khoa học tự
nhiên tiến bộ rất nhiều c̣n khoa siêu h́nh lại dẫm
chân tại chỗ,
· hơn nữa trong khoa
siêu h́nh, có nhiều lập trường mâu thuẫn nhau! Tại
sao?
Trong
tác phẩm “phê b́nh lư trí thuần túy”, Kant đă chứng minh
“lư trí thuần túy không thể bàn về vấn đề
siêu h́nh”, nói cách khác “lănh vực siêu h́nh vượt ngoài khả
năng của lư trí thuần túy”. Lư trí thuần túy đă
được sử dụng trong lănh vực ngoài khả
năng của nó.
Khi
phân biệt phán đoán phân tích và phán đoán tổng hợp,
Kant đă thực hiện theo mẫu một quan niệm
khoa học tự nhiên, và mặc nhiên loại trừ quan niệm
khoa học hiểu như hệ thống chân lư được
suy diễn từ chân lư hiển nhiên (kiểu Aristote). Khi
tách biệt đối tượng hiện tượng
(objet phénoménal) và đối tượng tự thân (objet
réel, noumène), Kant đă cắt đứt tương quan giữa
tự thân (noumène) và hiện tượng (phénomène), giữa
sự vật và siêu h́nh. Sự phân biệt này cũng nằm
trong chọn lựa và giải quyết của Kant: lănh vực
siêu h́nh không nằm trong khả năng của lư trí thuần
túy[22].
Lư
trí thuần tuư không thể biết đối tượng
tự thân (noumène) nhưng chỉ biết đối tượng
hiện tượng, tức đối tượng “cho
chúng ta”[23].
Đối tượng tự thân là thực tại hiện
hữu hiển nhiên phải giả sử khi chấp nhận
tri thức khoa học tự nhiên[24].
Thiên
Chúa, linh hồn bất tử, tự do là những thực
tại phải được chấp nhận v́ hiện hữu
mệnh lệnh tuyệt đối “làm lành lánh dữ”, “phải
làm điều này mà không được làm điều kia”.
Nói cách khác, không thể chứng minh bằng lư trí thuần
túy sự hiện hữu của Thiên Chúa, linh hồn bất
tử, con người tự do. Những điều này,
được đề nghị chấp nhận không phải
v́ chúng được chứng minh bởi lư trí thuần lư,
nhưng v́ nếu không chấp nhận th́ không thể lư giải
nổi tại sao lại có mệnh lệnh tuyệt đối
luân lư kia.
Nhận xét và phê b́nh:
Theo
Kant, lư trí thuần túy không thể khẳng định cách
có giá trị, sự hiện hữu của Thiên Chúa, sự
tự do, linh hồn bất tử, và những thực tại
siêu h́nh khác; v́ khi làm như vậy, nó đă làm điều
vượt ra ngoài khả năng của nó. Nhưng khi Kant
khẳng định giới hạn của lư trí thuần
túy như vậy, phải chăng Kant cũng đă làm
điều mà Kant cho rằng làm như vậy là vượt
ngoài phạm vi của lư trí thuần túy?
Với
Kant, lương tâm chứ không phải mặc khải, mới
thực sự là tiếng nói của Thiên Chúa trong chúng ta. Mặc
khải, Đức Yêsu và Giáo hội không cần thiết.
Kitô giáo được giản trừ thành tôn giáo dạy
cách cư xử tốt; Đức Yêsu là người mẫu
v́ Ngài là người thành toàn về luân lư và có tâm hồn
đặt nơi Thiên Chúa[25].
Tiên
đề của Kant hủy hoại siêu h́nh, cắt đứt
tương quan giữa hữu thể hiện tượng
và hữu thể siêu h́nh.
iv. Chủ thuyết
bất khả tri
Theo
một nghĩa rộng, người ta dùng “bất khả
tri[26]”
để chỉ những trường phái chủ
trương không thể biết đối tượng
ngoài tầm giác quan[27].
Bất khả tri là một h́nh thái đặc thù của
thuyết hoài nghi. Thuyết hoài nghi nghi ngờ mọi khả
năng tri thức, c̣n thuyết bất khả tri cho rằng
không thể có tri thức ngoài tầm của giác quan, và
như vậy nó phủ nhận siêu h́nh như một khoa học,
và cho rằng không thể biết Thiên Chúa. Thường
thường bất khả tri là lập trường của
các nhà duy thực nghiệm, duy nghiệm[28].
Thần
học công giáo phủ nhận và bài bác mọi h́nh thái bất
khả tri, thần học công giáo không những chỉ phủ
nhận chủ trương cho rằng con người không
thể biết những thực tại ngoài tầm với
của giác quan, mà c̣n phủ nhận cả chủ
trương cho rằng tuy con người có thể biết
Thiên Chúa nhưng không thể chứng minh sự hiện hữu
của Ngài bằng lư trí qua những thực tại hữu
h́nh[29].
b. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu
Một
số người cho rằng Thiên Chúa không hiện hữu,
như Feuerbach, K. Marx, A. Camus, J-P. Sartre...!
i. Chỉ có ư niệm
Thiên Chúa
Những
người phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu không hề
phủ nhận ư niệm “Thiên Chúa”. Khi phủ nhận Thiên
Chúa hiện hữu, là hàm chứa khẳng định có ư
niệm Thiên Chúa nơi họ và nơi những người
khác.
Những
người phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu cho rằng
ư niệm Thiên Chúa không phản ánh thực tại khách quan. Họ
cho rằng ư niệm Thiên Chúa là hữu thể của lư trí;
Thiên Chúa là ư niệm, là tùy thể chứ không là hữu thể
khách quan độc lập với lư trí con người.
Từ
“ư niệm” (hữu thể của lư trí) đến thực
tại (hữu thể khách quan độc lập với lư
trí con người), là cả một đoạn đường
dài vô tận! Ư niệm có phản ánh thực tại khách
quan không? Ư niệm có là thực tại khách quan không?
· Những người
theo thuyết duy danh (nominalisme) cho rằng ư niệm phổ
quát là danh từ chỉ một nhóm cá thể đặc thù[30].
Những đại biểu của trường phái này có
thể kể Roscelin (1050-1120) và Guillaume d'Occam (1300-1349).
· Những người
theo thuyết duy niệm (c̣n được gọi duy danh
ôn ḥa, so với duy danh cực đoan trên) cho rằng có những
ư niệm phổ quát trong trí, nhưng những ư niệm này
không tương ứng ǵ với thực tại[31].
Triết gia tiêu biểu là Abébard (1079-1142)[32].
· Những người
theo thuyết duy thực ôn ḥa cho rằng những ǵ ư niệm
phổ quát chỉ, có nơi sự vật, có tương
quan với thực tại[33].
· Những người
theo thuyết duy thực cực đoan cho rằng ư niệm
phổ quát có thực, hiện hữu độc lập với
cái cụ thể đặc thù nữa[34].
Hữu
thể của lư trí và hữu thể khách quan độc lập
với lư trí con người, là hai cấp độ hữu
thể khác nhau. Từ “ư niệm” đến “thực tại
khách quan” có cả một khoảng cách xa vời!
· Với Feuerbach, con
người tạo ra Thiên Chúa, v́ “Thiên Chúa” là ư niệm của
lư trí con người chứ không có “Thiên Chúa hiện hữu
như thực tại khách quan”.
· Với Platon và Descartes,
con người có ư niệm Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện hữu
đích thực như thực tại khách quan v́ ... ư niệm
phản ánh thực tại.
· Với Ansèlme (1033-1109),
ư niệm trọn hảo đ̣i hỏi hiện hữu, v́ bất
cứ cái ǵ dù tốt đến đâu mà chỉ là sản
phẩm của trí khôn th́ đâu đă là tốt trọn hảo!
V́ vậy, ư niệm “Thiên Chúa” hiểu “Thiên Chúa” là thực tại
tuyệt đối, tuyệt hảo, tốt trên tất cả
sự tốt, nên “Thiên Chúa” phải hiện hữu; nghĩa
là ư niệm Thiên Chúa phải
phản ánh Thiên Chúa thực tại,
v́ nếu không, Thiên Chúa không phải là cái tuyệt hảo.
Không hiện hữu, th́ chưa tốt lắm; cái tuyệt
hảo, phải là cái hiện hữu[35].
Hữu
thể của lư trí, do lư trí tạo ra trong tương quan với
thực tại, đó là những ư niệm. C̣n ư niệm
“Thiên Chúa”? Nếu ai chấp nhận lập trường
quan điểm của Feuerbach, th́ vẫn c̣n câu hỏi “tại
sao con người lại có khuynh hướng phóng chiếu
như vậy?”, phải chăng cơ cấu của lư trí
con người là như vậy? phải chăng con người
được tạo thành để hướng về
Thiên Chúa?
ii. Không có Thiên Chúa
Với
Feuerbach, Thiên Chúa chỉ là phóng chiếu của con người;
con người phóng chiếu những ǵ là tốt lành trọn
hảo nơi ḿnh lên cái gọi là Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện
hữu khách quan như một thực tại.
K.
Marx chủ trương duy vật: từ đời đời
đă có vật chất, tinh thần là kết quả của
sự biến dịch và chuyển biến từ lượng
đến phẩm. Vật chất có mâu thuẫn nội tại,
và những mâu thuẫn này là nguyên nhân của sự thay
đổi biến dịch, v́ thế vật chất không cần
nại vào nguyên lư kinh viện “quidquid movetur ab alio movetur”[36].
Albert
Camus chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu bằng sự
hiện hữu của sự ác. Thiên Chúa là Đấng tốt
lành và quyền năng vô cùng[37];
thế mà sự ác và đau khổ hiện diện tràn lan
trên mặt đất; vậy phải kết luận hoặc
Thiên Chúa không toàn năng hoặc Thiên Chúa không tốt lành, và
như vậy Thiên Chúa không hiện hữu.
Jean-Paul
Sartre cũng chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu! Thiên
Chúa là Đấng quyền năng, toàn tri, và quan pḥng tất
cả; nếu Thiên Chúa toàn tri th́ con người đâu c̣n tự
do nữa, mà nếu con người tự do th́ Thiên Chúa
đâu có toàn tri! Mà thực sự con người có tự
do, vậy phải kết luận rằng Thiên Chúa không hiện
hữu.
Người
ta chỉ chứng minh dựa vào một tiêu chuẩn nào
đó. Nếu người ta chứng minh được
Thiên Chúa hiện hữu, th́ Thiên Chúa cũng thuộc về
cùng một b́nh diện được chứng minh.
Nếu
muốn nói chứng minh Thiên Chúa hiện hữu, th́ phải
hiểu đây chỉ là những dấu chỉ, cho thấy
Thiên Chúa hiện hữu. Biết Thiên Chúa hiện hữu,
đó thuộc b́nh diện tin.
Có
nhiều hệ thống triết lư nhằm giải thích vũ
trụ vạn vật, và tất cả đều hàm chứa
một quan niệm về tri thức. Quan niệm nào
đúng? quan niệm nào phản ánh đúng sự thật nhất?
i. Platon
Platon
(428-348), là học tṛ trực tiếp của Socrate; động
lực suy tư của Platon chính là cái đă làm Socrate bận
tâm.
Socrate
đă coi nguồn gốc tội nơi con người là sự
ngu dốt, và ông nỗ lực làm cho mọi người hiểu
biết; phương châm của Socrate là “hăy biết ḿnh”[38].
Platon
và Socrate đều chịu ảnh hưởng của trào
lưu tư tưởng đương thời:
“con người là thước
đo vạn vật” của Protagoras[39],
“tất cả là biến dịch”
của Héraclite,
“chỉ có hữu thể, ngoài ra
không có ǵ cả” của Parménide[40].
Bận
tâm của Platon là làm sao biết đúng để sống tốt[41]!
Nếu mỗi người là thước đo vạn vật
th́ đâu là chân lư khách quan. Đối với Platon, con
người có tri thức là điều tự nhiên không thể
chối căi, vấn đề chính:
làm sao giải thích tri thức này,
làm sao dung ḥa tư tưởng của
Héraclite và Parménide.
Tiên
đề của Platon là thế giới ư niệm. Con
người biết, biết cái tổng quát lẫn cái
đặc thù, v́ linh hồn con người đă tiền hữu
ở thế giới ư niệm; con người biết v́
linh hồn nhớ lại những ǵ đă biết khi ở
trên thế giới ư niệm, v́ những ǵ vô thường
biến dịch ở thế giới khả giác này đều
là phản ánh của thế giới ư niệm thường
hằng.
ii. Quan điểm
được chọn
Khởi
từ sự kiện con người có thể biết những
đồ vật chung quanh bằng các giác quan, và qua tri thức
giác quan này người ta có tri thức trí tuệ (phản tỉnh
và siêu vượt). Khi nói lư trí con người có thể biết
các hữu thể, hàm chứa các hữu thể có
tương quan hữu cơ với nhau; nghĩa là, con
người và các hữu thể có tương quan với
nhau; nói chi tiết hơn, giữa lư trí cũng như ngôn ngữ
con người có tương quan hữu cơ bền vững
với các hữu thể khác.
Nếu
phủ nhận tương quan giữa các hữu thể, tức
phải phủ nhận tri thức của con người.
Không có tương quan hữu thể, th́ lư trí không thể
biết các sự vật, không thể biết các quy luật
chi phối chúng.
Khoa
siêu h́nh nói về điều này bằng phạm trù “hữu
thể khả tri” (l'être est intelligible).
Platon
cho biết quan niệm của Parménide “tư duy và hữu thể
là một”. “Tự bản chất, hữu thể khả
tri và hợp lư”[42].
Aristote cho rằng “cái càng hiện
hữu, th́ càng thật”[43].
Thánh Thomas Aquinô cũng nói “bất
cứ cái ǵ có thể hiện hữu, th́ có thể hiểu
được”[44].
Thời
kinh viện, người ta nói “Hữu thể, chân lư, thiện
hảo, hoán chuyển được lẫn nhau[45]”
và “mọi hữu thể đều chân thực[46]”.
K.
Rahner phát biểu “hữu thể tự bản chất tỏa
sáng[47]”.
Cái
ǵ có và xảy ra đều có một lư do giải thích thỏa
đáng tại sao nó có và xảy đến[48].
Điều này được các nhà siêu h́nh gọi là nguyên
lư túc lư.
Hiện
hữu, là có thể được tra vấn. Người
ta không thể tra vấn cái ǵ đó mà người ta không thể
biết, hoặc không biết chút ǵ về cái đó[49].
Nếu hữu thể không khả tri th́ ta không thể đặt
vấn đề khả tri của hữu thể. Mệnh
đề “hữu thể bất khả tri” là một mệnh
đề mâu thuẫn[50].
Cái
mà lư trí tri nhận đầu tiên, là hữu thể[51].
Người ta thường nói: “có cái ǵ đó”, “cái ǵ hiện
hữu”. Khi nói như vậy hàm chứa, “hiện hữu”
là cái được tri nhận đầu tiên; và “cái ǵ” (yếu
tính), là cái có thể được tra vấn. Hiện hữu,
xét như hành vi hiện hữu, là cái mà nhờ đó yếu
tính được xác định[52].
Khái
niệm chân lư không là khái niệm trực tiếp[53],
nhưng là khái niệm phản tỉnh. Đầu tiên lư trí
tri nhận hiện hữu, sau mới tới tính chân thực[54].
Các
mệnh đề “ens verum bonum convertuntur”, “omne ens est verum”,
và mệnh đề “hữu thể là tri thể” của K.
Rahner, không được hiểu theo nghĩa của thuyết
duy tâm với Hegel “hữu thể và tri thể luôn đồng
nhất”[55];
nhưng phải được hiểu: hữu thể là
tri thể theo mức độ hiện thể sở hữu
hữu thể[56].
Hữu thể khả tri theo mức độ hữu thể,
theo mức độ hiện thể sở hữu hữu
thể, theo mức độ hiện thể có khả
năng hiện diện với ḿnh, trở lại trên chính
ḿnh[57].
Hiện
thể hiện hữu theo những mức độ tham dự
hữu thể khác nhau. Mức độ hữu thể khác
nhau cũng c̣n có thể được gọi là tỷ lệ
hữu thể, loại suy hữu thể. Sự trở về
lại chính ḿnh, hiện diện với ḿnh, là nguyên tắc
cấu thành những mức độ hữu thể khác
nhau. Một hữu thể càng khả tri càng tham dự vào hữu
thể. Mức độ khả tri tỷ lệ với mức
độ hữu thể[58].
Tri
thức nhân loại như thường được quan
niệm, hàm chứa tất cả hữu thể có một
tương quan hữu cơ; v́ nếu lư trí, ngôn ngữ và
thực tại, không có tương quan hữu thể nào
đó, th́ con người không thể biết sự vật
và cũng không thể diễn tả hoặc thông đạt
chúng. Lập trường quan điểm này khác với:
· Gorgias, v́ Gorgias đặt
tương quan hữu thể khả giác với thế giới
ư niệm hơn là giữa các hữu thể với nhau;
· những người
theo chủ thuyết hoài nghi, v́ họ chỉ nhận tri thức
giác quan và phủ nhận tương quan hữu thể, cụ
thể là phủ nhận tương quan của lư trí với
vạn sự.
· Kant, v́ Kant chỉ giới
hạn khả năng của lư trí vào hữu thể khả
giác và loại trừ khả năng của lư trí thuần
lư vươn tới thực tại siêu h́nh (nếu có). Cũng
tương tự như vậy đối với những
người chủ trương “bất khả tri”;
· Hegel và Marx, v́ cả hai
đều có cái nh́n không đúng đắn và trung thực về
con người và về thế giới; Hegel đặt nặng
tinh thần và giản lược vật chất, c̣n Marx lại
quá đặt nặng vật chất và phủ nhận hữu
thể tinh thần;
· Camus và Sartre, v́ cả
hai có cái nh́n “hẹp” về hữu thể (phủ nhận
hữu thể siêu vượt tuyệt đối).
Trung
thực mà nói, quan niệm về tri thức giả thiết
tri thức về con người. Một cái nh́n đúng
đắn và trung thực về con người, sẽ giúp
có quan niệm đúng đắn và chân thực về tri thức
của con người và về vạn sự vạn vật.
i. Tôi là hiện hữu
bất tất
Tôi
là một hiện hữu bất tất.
Đó
là cái nh́n nền tảng về con người, về nhân học.
Tôi không thiết yếu phải có trên đời, giả
như không có tôi, cũng có những người khác. “Có mợ
th́ chợ cũng đông, không mợ th́ chợ vẫn không
vắng người”!
ii. Hữu thể tất
yếu
Nếu
“tôi là một hiện hữu bất tất”, th́ phải có
một hiện hữu tất yếu. Nếu không có hữu thể tất yếu,
th́ đă không có hữu thể bất tất. Bất cứ
khi nào khẳng định một hiện hữu bất tất,
hàm chứa khẳng định một hiện hữu tất
yếu. Nếu khẳng định một hiện hữu
bất tất mà không khẳng định một hiện hữu
tất yếu, là phủ nhận lư trí, phủ nhận khả
năng tri thức của lư trí.
Ở
đây bỏ qua chuỗi mắt xích cần thiết
tương đối[59]
để theo lư luận vượt lên tới hiện hữu
tất yếu. Nói rơ hơn, một hiện hữu bất
tất hàm chứa hiện hữu tất yếu tuyệt
đối.
Một
hữu thể bất tất hiện hữu, theo lư luận
hàm chứa một hiện hữu tất yếu tuyệt
đối. Giả như chứng minh được có nhiều
hiện hữu bất tất độc lập với
nhau tuyệt đối, hàm chứa có nhiều hiện hữu
tất yếu tuyệt đối; nhưng điều này
không được chứng minh, mà trái lại những hữu
thể bất tất đều liên hệ với nhau[60].
Cứ theo luận lư, có thể có những hiện hữu tất
yếu tuyệt đối, nhưng đây chỉ là có thể,
không đồng nghĩa với khẳng định “thực
có nhiều hiện hữu tất yếu”[61].
Bởi
một hữu thể tất yếu, có thể có nhiều
hữu thể bất tất. Những hiện hữu bất
tất như con người biết, đều tùy phụ
vào nhau; như vậy theo lư luận hàm chứa một hiện
hữu tất yếu tuyệt đối. Hiện hữu
tất yếu tuyệt đối có thể được
gọi bằng nhiều tên như Thiên Chúa, Đấng tuyệt
đối, Đấng tự hữu...
Với
lư trí, con người có thể khẳng định sự
hiện hữu của Thiên Chúa như hữu thể tất
yếu tuyệt đối; nghĩa là, con người có khả
năng tri thức Thiên Chúa.
Thiên
Chúa là một tên gọi khác của hiện hữu tất yếu
tuyệt đối. Hiện hữu tất yếu tuyệt
đối là hiện hữu nhờ đó hiện hữu bất
tất “tôi” hiện hữu.
Khi
khẳng định tôi là hiện hữu bất tất,
hàm chứa khẳng định hiện hữu tất yếu
tự do thực hiện
hành vi, qua đó hữu thể bất tất hiện hữu.
Hiện hữu tất yếu tuyệt đối, thực
hiện hành vi “hữu thể bất tất” hiện hữu
hay không, là tự ngài do ngài, tự do ngài. Hiện Hữu Tất Yếu Tuyệt
Đối là Hiện Hữu Tự Do, là Hiện Hữu Tự
Do Tuyệt Đối.
Với
tri thức đă giả sử như tiên đề, chúng ta
thấy vật thể[62]
không có tự do; chúng tất yếu phải tuân theo các định
luật thiên nhiên, và không thể không theo các luật thiên
nhiên đó.
Giác thể[63] cũng
không có tự do, v́ chúng cũng phải theo những định
luật, những bản năng cách tất yếu, chẳng
hạn như bản năng sinh tồn, bản năng tính
dục...; những hữu thể thuần giác quan[64]
không thể cưỡng lại những đ̣i hỏi của
bản năng, chúng tất yếu phải sống và hành
động như vậy.
Con
người, có tri thức và có tự do làm hay không làm điều
này hay điều kia, và có thể không theo những bản
năng của con người, chẳng hạn bản
năng sinh tồn, khi họ dám hiến mạng sống
ḿnh cho người khác, sẵn sàng chết để kẻ
khác được sống[65].
Như vậy, chỉ có hữu thể sở hữu tri thức
siêu vượt mới là hữu thể tự do.
Hữu
thể tự do là hữu thể tri thức chính ḿnh, hữu
thể phản tỉnh và siêu vượt[66].
Con vật cũng có tri thức giác quan, nhưng không có tri thức
phản tỉnh, tri thức chính ḿnh (phán đoán về chính
ḿnh).
Nếu
gọi hiện hữu tự do là tinh thần, th́ hiện hữu
tất yếu[67]
c̣n được gọi là tinh thần tuyệt đối[68].
Nói cách khác, tinh thần là hiện hữu tự do, có tri thức
chính ḿnh- phản tỉnh, trở về với chính ḿnh- và
siêu vượt.
Vật
thể tuân theo những quy luật tự nhiên cách tất yếu.
Cả với những sinh vật sống theo bản
năng, nó luôn sống theo bản năng và không thể làm
khác v́ nó không là hữu thể tự do. Tất cả những
hiện hữu này không có tự do, và như vậy người
ta có thể biết những ǵ sẽ xảy ra nơi chúng
khi người ta biết các định luật-vật lư
hay tâm lư- chi phối chúng.
c. Tự do- cấu tố làm nên lịch sử
Chuỗi
hành động của hữu thể tự do là lịch sử.
Với hiện hữu tuyệt đối tự do, không thể
lường trước được những hành vi Ngài
thực hiện. Ngài hành động rồi con người
mới biết. Chẳng hạn không ǵ buộc Ngài phải
tạo dựng vũ trụ hoặc con người, chỉ
khi Ngài thực hiện hành vi để những hiện hữu
bất tất hiện hữu, con người mới biết
Ngài đă thực hiện những điều đó.
Mỗi
hành vi tự do của hữu thể tự do, đều tỏ
lộ về hữu thể tự do. Hiện hữu tự
do, tự bản chất, luôn luôn mới, luôn luôn tạo ra
lịch sử[69].
Khi
hiện hữu tất yếu tự do tạo dựng hiện
hữu “người” như một ngôi vị, hiện hữu
tự do tỏ cho thấy hiện hữu tự do là hiện
hữu t́nh yêu[70].
Hiện
hữu tự do luôn luôn có thể thực hiện một
hành vi bất tất mà người ta không thể biết
trước được, và như vậy hiện hữu
tự do luôn luôn là một mầu nhiệm. Hiện hữu
tự do có thể rất “mới[71]”
khi thực hiện một hành vi bất tất.
Hiện
hữu tất yếu tự do, là hiện hữu luôn luôn mới.
Nếu Ngài mặc khải, con người hiểu biết
hơn về Ngài, nhưng không bao giờ hiểu trọn vẹn
về Ngài, v́ Ngài là hiện hữu tự do. Mỗi hành vi của
Ngài đều là hành vi mặc khải, và qua đó cho thấy
Ngài là hiện hữu tất yếu tự do “mới”, trong
sáng và tuyệt mỹ hơn trước.
Nếu
hiện hữu tất yếu tự do không thực hiện
hành vi tạo dựng con người, con người không
hiện hữu và không biết về Ngài. Ngài cũng có thể chỉ tạo dựng con người và không tiếp
tục mặc khải cho con người, v́ Ngài là hiện
hữu tuyệt đối tự do. Nói theo ngôn từ của
K. Rahner, Thiên Chúa là Đấng tốt lành và thánh thiện,
nhưng điều này không hàm
chứa Thiên Chúa phải cứu
độ con người[72].
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968, p. 105
Cf. LNC 141252, Dẫn Nhập Thần Học, ĐL. 45, trg. 47.22
[2] K. RAHNER, A propos de la réforme des études ecclésiastiques”,
trong Est-Il possible aujourd’hui de croire, MAME 1966, p. 202
Y. CONGAR, La Foi et la Théologie,
Cl. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale. Essai d’interprétation”, trong CONCLILIUM 46 (1969), p. 11
[3] Một số người đề nghị dùng chữ mạc khải thay chữ mặc khải. Chúng ta sẽ cùng nhau t́m hiểu từ ngữ Hán Việt để cho thấy lư do chúng ta chọn từ ngữ mặc khải.
ĐÀO
DUY ANH, Hán Việt từ điển,
· Mạc ( ) có nghĩa: chẳng, không có, đừng;
Mạc ( ) (thêm chữ thủ): sờ mó;
Mạc ( ) (thêâm chữ thủy): băi cát, trong trẻo, yên lặng, không quan hệ với nhau;
Mạc ( ) (thêm chữ nhục): da mỏng bọc gân thịt;
Mạc ( ) (thêm chữ cân): cái màn;
Mạc mạc ( ): mây đen phủ kín, tịch mịch;
· Mặc ( ) (bộ hắc ): yên lặng, không nói không cười (từ đây có chữ mặc hứa, mặc nhiên)
Mặc ( ) (bộ thổ ( ) (THIỀU CHỬU, Hán Việt tự điển, HÀ NỘI 1942)
có nghĩa: mực, sắc đen (từ đây có chữ mặc khách)
Mặc mặc ( ): tịch mịch lặng lẽ, thái độ bất đắc ư.
· Khải ( ) có nghĩa: mở, thuật bày
(khác với chữ khải là vui mừng, cũng viết khác theo tiếng Hán).
̃
Như vậy
Mạc khải ( ), có nghĩa: kéo màn, mở màn.
Mạc khải ( ), có nghĩa: mở (ḷng) ra khỏi sự yên lặng.
Mặc khải ( ), có nghĩa: ra khỏi sự yên lặng (tỏ lộ).
Theo ư kiến cá nhân, dùng chữ mạc khải hay mặc khải đều được, nhưng bản thân nghiêng về dùng chữ mặc khải hơn.
[4] THANH NGHỊ, Việt Nam Tân Tự Điển Minh họa,
KHAI TRÍ-
[5] Art.
“Révélation” trong Dictionaire de Théologie Catholique, t.XIII,
cf. G. THILS, Propos et Problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966, p. 84
[6] Cf. G. THILS, op. cit., p. 84
[7] H. BOUILLARD, “Révélation et Histoire”,
trong La Théologie de l’histoire. Herméneutique et
eschatologie, ed.
Cf. R. LATOURELLE, “La spécificité de la Révélation chrétienne”,
trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX (1971), GREGORIANA 1971, p. 46
[8] K. BARTH, Dogmatique, vol. II, t. II: “Gottes Offenbarung als Aufhebung der Religion”,
cf. G. THILS, op. cit., p. 46
[9] L. S. THORNTON, Revelation in the modern world, OXFORD UNI. PRESS 1950, pp. 60. 194
Cf. G. PARRINDER, “Revelation in other Scriptures”, trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX (1971), GREGORIANA 1971, p. 103
[10] G. PARRINDER, art. cit., p. 103
[11] J. ALFARO, Persona y Gracia, GREGORIANUM 41 (1960), p. 11,
Cf. R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966, p. 392
[12] H. FRIES, “Le Mythe et la Révélation”, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD’HUI, DDB-PARIS 1964, p. 16
[13] A. DULLES, Revelation Theology, BURNS & OATES 1969, p. 9
[14] R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966, p. 9
[15] Ecclesiam Suam, n. 72
Cf. H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l’histoire, CERF 1974, p. 29 , collection Foi Vivante 159.
[16] Với cái nh́n chủ quan, tín đồ của tôn giáo nào cũng cho rằng tôn giáo ḿnh đang theo là tôn giáo đúng nhất và là tôn giáo được mặc khải. Người Do thái cho rằng đạo Do thái của họ là duy nhất đúng; người Hồi giáo cũng cho rằng kinh Coran là kinh được mặc khải và Hồi giáo là tôn giáo duy nhất chân thực; người theo Ấn giáo cũng cho rằng Ấn Giáo mới là tôn giáo được mặc khải. Kitô hữu cũng cho rằng Kitô giáo mới là đạo chân thực.
Vậy đối với kitô hữu, và đặc biệt với người công giáo chúng ta, các tôn giáo ngoài kitô giáo có mặc khải không? Không bàn về vấn đề này ở đây, nhưng theo ư kiến cá nhân, các tôn giáo ngoài kitô giáo cũng có thể được mặc khải. Xem Y. PHAM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ĐALẠT 1982, trang 16-27, bdm.
Xem thêm STUDIA MISSIONALIA, vol. XX (1971), GREGORIANA 1971
[17] Không tùy thuộc lư trí và ư chí con người, nghĩa là không tùy thuộc con người có biết điều đó hay có chấp nhận điều đó hay không.
[18] LÊ TÔN NGHIÊM, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, LÁ BỐI 1970, pp. 210-211.
[19] F-J. THONNARD, Précis d' Histoire de la Philosophie, DESCLÉE et Cie, PARIS 1966, p. 156.
Ông tổ của chủ thuyết hoài nghi là Pyrrhon (365-275);
Chủ thuyết cái nhiên (probabilisme) với Arcésilas (315-241) lănh tụ Académie (Hàn Lâm);
Carnéade (215-126) lănh tụ Tân Hàn Lâm; và những người khác như Aenesidemus, Agrippa, Sextus Empiricus...
[20] Op. cit., p. 157
[21] AUGUSTINUS, De Trinitate, l. XV, ch. XII, 21
Cf. F-J. THONNARD, op. cit., p. 208
[22] Kant phân biệt phán đoán phân tích và phán đoán tổng hợp, phán đoán tổng hợp tiên thiên và hậu thiên. Chỉ có phán đoán tổng hợp tiên thiên mới có giá trị khoa học. (F-J Thonnard, op. cit., p. 624).
Kant phân biệt đối tượng hiện tượng và đối tượng tự thân. Đối tượng tự thân thuộc lănh vực của lư trí thực tiễn, chẳng hạn như Thiên Chúa, linh hồn bất tử, tự do,... (F-J. THONNARD, op. cit., p. 630).
Không gian và thời gian không là thực thể khách quan, nhưng là những khung tiên thiên (formes à priori) của cảm quan nhờ đó những trực giác giác quan được h́nh thành, cũng tương tự như vậy các ư niệm phổ quát là những mô thức tiên thiên (formes à priori) của trí hiểu (Der Verstand).
(Cf. A. HALDET, art. “Knowledge”, trong SACRAMENTUM MUNDI, ed. K. RAHNER, BURNS and OATES 1968, p. 252
K. KRENN, art. “Kantianism”, trong SACRAMENTUM MUNDI, p. 243)
Kant tiến hành việc phê b́nh tri thức
bằng việc phê b́nh cảm quan (critique de la sensibilité) trong phần cảm quan siêu nghiệm (Esthétique transcendantale),
và bằng việc phê b́nh phán đoán trong phần luận lư siêu nghiệm (logique transcendantale; luận lư siêu nghiệm c̣n được gọi là phân tích siêu nghiệm (analytique transcendantale),
và bằng việc phê b́nh biện chứng siêu nghiệm (dialectique transcendantale)
(Xem F-J. THONNARD, op.cit., pp. 646-647).
Phương pháp Kant dùng là phản tỉnh phê b́nh (réflexion critique), hay c̣n gọi là phản tỉnh siêu nghiệm (réflexion transcendale)
(Op. cit., pp. 628-630).
Phản tỉnh phê b́nh gồm
phân tích phê b́nh (analyse critique) nhằm xác định những yếu tố cấu thành và những quy luật của phán đoán,
và diễn dịch phê b́nh (déduction critique) nhằm xác định những điều kiện tuyệt đối cần thiết (nếu không có những giả sử này, th́ không có tri thức). (Xem F-J.THONNARD, op.cit., pp. 639-640. 628-630)
Kant cho rằng tri thức khởi đầu với giác quan, tiếp tục nơi trí năng và kết cục nơi lư trí,
hoặc, tri thức là trực giác và quan niệm, trực giác cộng thêm tư tưởng (K. KRENN, art. cit., p. 243: “From sensible intuition, human knowledge finally progresses to concepts and judgments. But for Kant, knowledge is intuition and concept, intuition plus thought”),
hoặc, mọi tri thức nhân loại đều khởi đầu với trực giác, rồi qua quan niệm, kết cục nơi ư niệm (F-J. THONNARD, op. cit., p. 633).
Giả sử của Kant:
có các phán đoán tổng hợp tiên thiên,
khả năng phản tỉnh phê b́nh,
phán đoán khoa học là chuẩn
( F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 630-631).
[23] K. KRENN, art. “Kantianism”, p. 243
F-J. THONNARD, op. cit., pp. 632. 630
[24] F-J. THONNARD, op. cit., pp. 647- 648
[25] K. KRENN, art. “Kantianism”, p. 243
[26] Agnosticisme.
[27] A. DE
LA BARRE, art. “Agnosticisme”, trong DTC. I/1,
[28] J. SPLETT, art. “Agnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968, p. 15
[29] Ibid., p. 16
[30] F-J. THONNARD, Précis d'histoire..., p. 285
ALBERT KELLER, art. “Universals”, SACRAMENTUM MUNDI, III, p. 325
HANS M. BAUMGARTNER, art. “Transcendantal Philosophy”, SACRA-MENTUM MUNDI, p. 282
Tự điển PETIT LAROUSSE, từ ngữ “nominalisme”.
[31] Ibidem.
[32] Tự điễn Larousse, từ ngữ “conceptualisme”.
[33] A. KELLER, art. cit. p. 325
[34] Ibidem
F-J. THONNARD, op. cit., p. 285
[35] F-J. THONNARD, op. cit., p. 302
[36] G. A. Wetter, art. “Marxism”, trong SACRAMENTUM MUNDI, IV, p. 425
[37] như người ta vẫn thường quan niệm.
[38] Connais- toi, toi même.
[39] Ibid., p. 306: “l' homme est la mesure de toutes choses.”
[40] F-J. THONNARD, Extrais Des Grands Philosophes, DESCLÉE et Cie-PARIS 1963, pp. 6-7
[41] FRIEDO RICKEN, art. “Platonism”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS and OATES 1968, p. 30
[42] PLATON, Parménide, “Même chose se donne à penser et à être”: chez Parménide. L'être est, de soi, intelligible et rationnel. Trích bởi J. DE FINANCE, Connaissance de l'être, DDB-PARIS 1966, p. 129
[43] ARISTOTE, Met. A1 993b 31: “autant une chose a d' être, autant il a de vérité”. Trích bởi J. DE FINANCE, op. cit., p.130.
[44] S. THOMAS, C G. II, 98: Quidquid esse potest, intelligi potest.
Trích dẫn bởi F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, DESCLÉE et Cie-PARIS 1966, p. 36
K. RAHNER, L'esprit dans le monde, MAME-FRANCE 1968, p. 79
[45] Ens, verum, bonum convertuntur.
[46] Omne ens est verum.
[47] K.RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, MAME 1967, pp. 83. 88
[48] J. DE FINANCE, Connaissance de l'être, DDB-PARIS 1966, pp. 147. 156-157
[49] K. RAHNER, L'esprit dans le monde, p. 79
[50] J. DE FINANCE op. cit., pp. 135-136
[51] S.
THOMAS,
S. THOMAS, De Veritale, I, 1: “Illud quod primo intellectus concipit quasi notissium et in quo omnes conceptiones resolvit est ens”.
[52] J. DE FINANCE, op.cit., p. 138
[53] ngay lập tức.
[54] S.THOMAS, ST. I, q. 16, a. 4, ad 2: “Intellectus... per prius apprehendit ipsum ens et secundario apprehendit se intelligere ens... Unde primo est ratio entis, secundo ratio veri.
Cf. J. DE FINANCE, op. cit., p. 144
[55] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 90
[56] Ở đây đề nghị dịch chữ l’étant là hiện thể, c̣n chữ acte là hiển thể (đi với tiềm thể, puissance).
K. RAHNER, op. cit., p. 99
[57] K. RAHNER, op. cit., pp. 88.94
[58] K. RAHNER, op. cit., pp. 97. 96. 94
S. THOMAS, ST. I-II, q.3, a.7, c: “eadem est dispositio rerum in esse sicut in veritate”.
In II Metaph., lect. 1, n. 280: “Unumquodque est cognoscibile in quantum est ens in actu; unumquodque est intelligens et intelligibile, quod est idem, in quantum est ens actu”.
In VII Met., lect. 2, n. 1301: “Secundum quod aliquid est ens secundum hoc est cognoscibile”.
[59] cần thiết bất tất, như tôi cần có cha mẹ và cha mẹ cần có ông bà, và cứ tương tự như vậy.
[60] Chúng không là những hiện hữu bất tất độc lập với nhau tuyệt đối.
[61] Độc thần cũng là một chân lư được mặc khải. Với tri thức của con người, không có những hiện hữu bất tất độc lập, nên không có nhiều hiện hữu tất yếu.
[62] hữu thể thuần vật chất.
[63] hữu thể có những giác quan.
[64] không có lư trí.
[65] như thánh Max. Kolbe.
[66] Đúng ra chúng ta phải nói, hiện hữu tự do là tinh thần, v́ tinh thần được định nghĩa là hiện hữu sở hữu tri thức phải tỉnh và siêu vượt.
[67] hay Thiên Chúa, Hiện Hữu Tự Do Tuyệt Đối, Hiện Hữu Tri Thức Tuyệt Đối.
[68] Tính chất tự do của con người, sẽ có dịp đề cập ở những đoạn sau.
[69] Lịch sử hiểu là chuỗi những hành động của hiện hữu tư do.
[70] T́nh yêu là tương quan giữa hai ngôi vị, là ư muốn theo lư trí “tự do” có đối tượng là ngôi vị.
“Ư muốn là khuynh chiều của hữu
thể theo lư trí” (
In Aristotelis Librum De Anima Commentarium,
[71] Không theo cái cũ, không theo vết xe cũ, không theo thói quen cũ, thế nên người ta không biết trước được.
[72] K. RAHNER, art. “Salvation”, trong SACRAMENTUM MUNDI, V, HERDER and HERDER 1970, col. 406