HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
MỤC LỤC:
1. Tri thức của con người tại
thế
2. Lời- phương tiện và môi trường
mặc khải
b. Mặc khải như biến cố lịch
sử
PHẦN II: MẶC KHẢI TRONG
KINH THÁNH
a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả
đều tốt đẹp
b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con
người
3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử
Khởi
từ sự kiện con người có tri thức về những
vật thể qua giác quan, và với khả năng của
lư trí, con người đă vươn lên nhận biết sự
hiện hữu của hữu thể tất yếu tuyệt
đối.
Một
lư giải về lư trí và tri thức.
Trí
khôn hay lư trí là yếu tố cấu thành của con người
xét như tinh thần nhập thể. Nói theo ngôn từ của
thánh Thomas Aquinô, lư trí là mô thể lập hữu[1].
Trí khôn có nhiều khả năng (trí năng) như nhớ
(trí nhớ), tưởng tượng (trí tưởng
tượng), suy luận (lư trí) để đi tới phán
quyết[2].
Phán quyết này có thể:
tạo thành tri thức giác quan
như khi khẳng định “cái bàn này trắng” v.v...,
hoặc có thể tạo thành tri
thức siêu việt do suy luận, như “tôi là hữu thể
bất tất, vậy phải hàm chứa có hiện hữu
tất yếu, v́ nếu không, đâu có hiện hữu bất
tất là tôi”,
hoặc làm thành tiếng
lương tâm khi phán quyết về chính hành vi cư xử
của ḿnh như “tôi không được làm như vậy
v́ làm như vậy là trái phẩm giá con người, tôi phải
làm điều kia v́ như vậy tôi mới sống xứng
đáng làm con Chúa, v.v...”.
Trí
tưởng tượng (phantasia) vận hành với những
ảnh tượng (phantasma, phantasmata) và thường ở
t́nh trạng vô thức. Các vật thể được tiếp
nhận qua giác quan và h́nh thành các ảnh tượng
(phantasma, phantasmata) nơi trí năo. Lư trí trừu xuất từ
những ảnh tượng này, để có những ảnh
niệm[3]. Ảnh
niệm (species intelligibilis) có thể được hiểu
là ư niệm (eidos[4]),
dùng để chỉ cái phổ quát đă được trừu
xuất từ những vật cụ thể. Qua trung gian những
ảnh niệm, lư trí với khả năng suy luận tạo
thành những ư niệm mới hoặc những quan niệm,
chẳng hạn tự do, công bằng, bác ái[5]...
Không
sai lầm với ảnh tượng, ảnh niệm. Sai lầm
và chân thực chỉ có khi phán đoán; chẳng hạn khi
khẳng định “đó là cái bàn”, “cái bàn này màu trắng”,
“anh đó là người bác ái”...! Chỉ có tinh thần, mới
có thể tự phán đoán hay đánh giá ḿnh đúng sai.
Đánh giá đúng sai, là phán đoán về phán đoán của
con người[6], kể
cả ḿnh.
K.
Rahner trích dẫn tác phẩm thánh Thomas chú giải Aristote
“linh hồn không có tri thức trí tuệ nếu không trở
lại với ảnh tượng[7]”.
Thánh Thomas cho rằng yếu tính của lư trí con người
phải được xác định khởi từ việc
kết hợp với thân xác, và sự kết hợp này
được diễn tả trong conversio intellectus ad
phantasma, nghĩa là trở lại với trí tưởng
tượng[8].
K.
Rahner đă thấy vấn đề trở về với ảnh
tượng (conversio ad phantasma) là vấn đề khả
thể của siêu h́nh học, và K. Rahner cho rằng có thể
xây nền siêu h́nh học của ḿnh dựa trên S.T. I, q. 84,
a.7: “Liệu lư trí có thể biết nhờ những ảnh
niệm có nơi ḿnh, mà không trở về với ảnh
tượng không (Utrum intellectus possit actu intelligere per species
intelligibilis quas penes se habet, non convertendo se ad phantasma)[9]?”.
Theo
thánh Thomas, ảnh tượng là khởi đầu của
tri thức con người v́ khởi từ nó lư trí hoạt
động[10].
Đối tượng của lư trí là ảnh tượng[11],
nhưng đối tượng riêng của lư trí là yếu
tính của sự vật như được trừu xuất
và không tách rời khỏi sự vật khả giác[12]. Ảnh
tượng là cái tương tự của sự vật
khả giác[13].
Ảnh
niệm (species intelligibilis), theo thánh Thomas, không là đối
tượng của lư trí, nhưng là cái nhờ đó mà lư
trí biết[14].
Ảnh niệm không có nghĩa là một “h́nh ảnh hữu
ư” nào đó, nhưng là sự hoàn hảo hữu thể của
tinh thần xét như hiện thể[15],
là yếu tố làm tri thức có nền tảng khả hữu
nội tại[16].
Trừu
xuất (abstractio), trở lại với ảnh tượng
(conversio ad phantasma), và siêu vượt (excessus), là những khả
năng của lư trí (intellectus), là những tiến tŕnh
để tri thức.
Trừu
xuất, xét như nó là sự thủ đắc ư niệm
phổ quát, là thực hiện việc trở lại của
chủ thể với chính ḿnh (reditio subjecti in seipsum)[17].
Bởi trừu xuất, con người nắm bắt cái tổng
quát trong cái đặc thù, và nhờ đó có phán đoán[18].
Khả năng trở lại hoàn toàn với chính ḿnh, là nét
đặc trưng cơ bản của lư trí[19].
Trở
lại với ảnh tượng (conversio ad phantasma) là tính
chất riêng và nội tại của chính hành vi trừu xuất[20].
Trừu xuất và trở lại với ảnh tượng,
không được coi là hai thời kế tiếp nhau,
nhưng cả hai đều là điều kiện hỗ
tương, và tạo thành tri thức duy nhất của con
người[21].
Tuy chúng được đề cập kế tiếp
nhau, và được xét như những tiến tŕnh kế
tiếp nhau, nhưng thật sự chúng là một để
làm thành tri thức nơi con người.
Siêu
vượt ở đây là từ ngữ dùng để dịch
chữ la-tinh excessus, nhưng chữ siêu vượt (hay siêu
việt) thường được dùng để dịch
chữ transcendance (tiếng Anh và Pháp). Với K. Rahner, tiền
dự (anticipation, Der Vorgriff) là siêu vượt[22].
Theo
thánh Thomas, siêu vượt (excessus) cần thiết để
lănh hội các đối tượng của khoa siêu h́nh, mặc
dầu cái khả giác vẫn được coi như vùng
đất thường trực của tri thức con
người[23].
Ở một chỗ khác, siêu vượt và phủ nhận
(remotio) xuất hiện như những điều kiện
thủ đắc đối tượng siêu h́nh[24].
Theo
K. Rahner, tiền dự là sự siêu vượt của tinh
thần, nhờ đó mà tinh thần lănh hội cái đặc
thù, bằng việc nh́n vượt qua nó hướng về
khoảng tuyệt đối của các đối tượng
có thể có[25].
Để hiểu một yếu tính phổ quát tự bản
chất là vô giới hạn, dù rằng yếu tính phổ
quát này được kinh nghiệm trong cái khả giác, th́
đầu tiên lư trí phải lănh hội rằng yếu tính
này được giới hạn trong và nhờ cái khả giác này. Nhưng
để ư thức về sự giới hạn này, th́ hành
vi lănh hội cái khả giác đặc thù này phải siêu
vượt nó để hướng về cái ǵ hơn nữa.
Cái ǵ hơn nữa này không thể là một đối
tượng đặc thù cùng loại, v́ nếu không, lại
phải siêu vượt qua nó nữa... Như vậy khi lănh
hội một đối tượng đặc thù, ư thức
vượt lên trên cái đối tượng đặc
thù, và lănh hội nó không chỉ trong cái này (giới hạn và riêng rẽ) mà c̣n trong tính
hữu hạn của nó, cũng như trong tương quan
của nó với cái toàn thể của những đối tượng
có thể có[26].
Khả
năng của lư trí để trừu xuất (abstractio,
reditio in seipsum) và siêu vượt (transcendance, tiền dự
anticipation) gọi là lư trí tác động ((intellectus agens). Lư
trí tác động là khả năng nhận biết đối
tượng trực giác qua giác quan như thực tại giới
hạn và cụ thể, và như vậy lư trí tác động
phổ quát hóa mô thể nơi cái khả giác, và giải
phóng mô thể khỏi cái đặc thù vật chất[27].
Lư trí tác động là nền tảng của mọi nguyên tắc,
là nền tảng của tri thức[28].
Thể
tri không là sự tiếp xúc của lư trí với sự vật[29],
không là một hành động (sản phẩm của hành vi
lănh hội) nhưng là một hiển thể, nghĩa là một
thực tại hiện diện với chính ḿnh[30].
Thể tri là hiện diện với chính ḿnh, là t́nh trạng
phản tỉnh trên chính ḿnh của một hữu thể
có khả năng được xác định[31].
Theo
thánh Thomas, thể tri[32]
là sự trở lại chính ḿnh của tri thể[33]
và như vậy, là hiện diện với chính ḿnh[34].
Tri thể (cognoscens) và cái được biết (cognitum) là
một trong hiển thể[35].
Lư trí và cái được biết là một[36].
Cái được biết là sự trọn hảo của
tri thể[37].
Như vậy cái được biết luôn luôn là hữu
thể của tri thể[38].
Tri
thức, một cách tổng quát, là hiện diện với
ḿnh của hữu thể, là hữu thể phản tỉnh,
là sự trở về trên chính ḿnh (reditio in seipsum). Nhưng
đối với con người, tri thức hàm chứa phải
hiện diện với thế giới, phải ở
nơi tha thể trong giác thể[39].
Thánh Thomas diễn tả điều
này trong ST. I, q. 84, a. 7, corp.: “impossibile est intellectum nostrum,
secundum praesentis vitae statum, quo passibili corpori conjungitur, aliquid
intelligere in actu, nisi convertendo se ad phantasmata”[40].
Tri
thức hệ tại phán đoán. Cái riêng của lư trí là khẳng
định hoặc phủ định[41];
và chỉ lư trí mới biết chân hoặc giả, chân lư hoặc
sai lầm[42].
Và như ở trên đă thấy, lư trí không thể biết
ǵ nếu không nhờ ảnh tượng. Chính quan niệm
này giúp xác định môi trường mặc khải.
Thiên
Chúa tự do, Ngài tự do mặc khải, hoặc tự do
không mặc khải. Mặc khải hay không, là hoàn toàn tùy
thuộc Thiên Chúa[43].
Trên b́nh diện thuần lư trí, trước khi Thiên Chúa mặc
khải cho con người, lư trí không biết Thiên Chúa có mặc
khải cho con người hay không. Hữu thể tự do
luôn là một mầu nhiệm, hữu thể tự do luôn
luôn mới, mỗi hành vi hành động của hữu thể
tự do đều là những sáng tạo bất ngờ[44].
Giả
như Thiên Chúa mặc khải cho con người, th́ đâu
là môi trường, đâu là phương tiện Ngài dùng
để mặc khải cho con người?
V́
Thiên Chúa là hữu thể tự do, nên không thể định
trước cho Ngài môi trường, cách thức hay
phương tiện. Những điều này, hoàn toàn tùy thuộc
Ngài. Nhưng nếu Ngài mặc khải cho con người
th́ Ngài chỉ mặc khải những điều con
người có thể lănh hội được[45].
Nếu cứ ở điều kiện hiện tại, tức
điều kiện cấu thành con người hiện tại[46],
người ta có thể dựa vào cơ cấu con người
hiện tại để xác định môi trường mặc
khải, nếu có và thực sự đă có, của Thiên
Chúa cho con người.
Lời,
theo tiếng Hy lạp, có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất
là lư trí, nghĩa thứ hai là lời; và từ hai nghĩa
chính này, chúng ta thấy có nhiều nghĩa khác[47].
Lời (DABAR), theo tiếng Do thái, có nghĩa là lời nói, sự
vật, và cả lư trí nữa[48].
Lời là tên làm cho sự vật có thể hiểu
được[49].
Như vậy, lời (Logos, Dabar) là lời nói, là sự vật,
là lư trí.
Lời
là thực tại làm cho con người có thể hiểu một
thực tại. Như vậy, tất cả những ǵ làm
cho con người, làm cho lư trí con người có thể hiểu
một thực tại đều được gọi là
lời[50].
Bao
lâu con người chưa được hưởng kiến
trực tiếp Thiên Chúa, th́ mặc khải được
thực hiện qua lời[51],
v́ ở điều kiện hiện tại của con
người, con người tri thức nhờ các ư niệm,
ảnh tượng, các sự vật khả giác. “Lời” ở
đây không chỉ là dấu chỉ của sự vật khả
giác nhưng c̣n là dấu chỉ của tinh thần[52].
b. Mặc khải như biến cố lịch sử
Lịch
sử là một chuỗi biến cố của một hay
nhiều hiện hữu tự do; nếu không có tự do,
không có lịch sử. Ở đâu có tự do, th́ ở
đó luôn luôn có một chuỗi biến cố mà người
ta không có thể tính toán và diễn dịch khởi từ một
nguyên tắc tổng quát[53].
Hiểu
lịch sử như vậy, những hiện hữu bất
tất tùy thuộc hiện hữu tuyệt đối tự
do đều là những dấu chỉ, là lời để
con người tri thức, là lời để con người
nhận biết hiện hữu tuyệt đối tất
yếu. Tương tự thế, những hành vi tự do
của một ngôi vị tự do, cho con người biết
hơn về ngôi vị ấy; cũng vậy, những hành
động của hiện hữu tất yếu mà con
người có thể tri thức được, cũng
giúp con người có thể biết hơn về hiện
hữu tất yếu tuyệt đối tự do.
Như
vậy, lịch sử xét như là lời, giúp con người
tri thức về hiện hữu tuyệt đối. Nói
cách khác, nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người
trong hoàn cảnh điều kiện tại thế, tạo
thành lịch sử[54],
th́ con người có thể ngang qua lịch sử đó -tức
là lời, nhận biết được thực tại mặc
khải. Nói như vậy không có nghĩa, tất cả những
ǵ Thiên Chúa hành động con người cũng biết;
v́ tri thức con người phải qua giác quan và những
vật khả giác, nên con người chỉ có thể biết
khi Thiên Chúa muốn mặc khải, và Ngài mặc khải
qua lời.
Như
vậy, mặc khải hay không, tùy thuộc hoàn toàn nơi
Thiên Chúa, v́ Ngài là hiện hữu tuyệt đối tự
do; và nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người, th́
lịch sử là nơi Thiên Chúa mặc khải cho con
người, và con người phải luôn lắng nghe và
để ư tới lịch sử, v́ đây chính là môi
trường Thiên Chúa mặc khải cho con người[55].
Khởi
từ tri thức về vạn sự vạn vật qua
giác quan và với khả năng suy luận của lư trí, con
người nhận ra hữu thể có một tương
quan mật thiết với nhau. Cũng từ tri thức
giác quan và với khả năng suy luận, con người
nhận ra ḿnh là hiện hữu bất tất, và từ
đó nhận biết Hữu Thể Tất Yếu Tự
Do.
Tất
cả đều hiện hữu, nhưng các hữu thể
hiện hữu theo những mức độ khác nhau. Hữu
thể sở hữu hữu thể tùy mức độ
tri thức, theo mức độ hữu thể hiện diện
với chính ḿnh[56].
Hữu
thể được gọi là vật thể, khi hữu
thể này khả tri với hữu thể khác nhưng lại
ẩn dấu với chính nó, nó không thể trở lại
chính ḿnh. Hữu thể được gọi là giác thể,
khi tri thức của hữu thể có đối tượng
trước tiên là vật thể[57].
Hữu thể được gọi là tinh thần khi hữu
thể có thể trở về chính ḿnh.
Con
người không chỉ là giác thể, tức là có tri thức
vật thể bằng hành vi hiện hiện nơi tha thể,
nhưng con người c̣n là tinh thần, v́ con người
có khả năng trở về chính ḿnh (reditio completa in
seipsum)[58].
Chính trong thân xác và qua thân xác mà con người là tinh thần.
Con người là tinh thần nhập thể[59].
Con
người, ngoài tri thức giác quan c̣n có khả năng suy
tư trên cái biết giác quan. Chẳng hạn nh́n trái táo
rơi, con người có thể suy tư t́m hiểu để
khám phá ra định luật chi phối vật thể. Dầu
vậy tri thức này cũng chỉ nằm ở b́nh diện
sự vật.
Ngủ
mơ thấy ḿnh là bướm, tỉnh dậy không biết
có phải ḿnh là bướm đang mơ?! Lúc đó là
mơ hay lúc này mới là mơ, bây giờ là mơ hay thực!
(Trang Tử).
Tôi sai lầm, vậy tôi hiện
hữu (Augustin).
Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu
(Descartes).
Cái tuyệt hảo, phải hiện
hữu; v́ nếu không hiện hữu th́ không là tuyệt hảo
(Anselme).
Tôi là hiện hữu bất tất,
vậy phải có hiện hữu tất yếu.
Trên đây là những tri thức,
nhưng những tri thức này không c̣n thuộc b́nh diện
vật thể. Những tri thức này khởi từ tri thức
vật thể giác quan, nhưng đă không dừng lại mà
vượt trên b́nh diện vật thể. Với tri thức
này, con người trở thành tinh thần, con người
đă qua tri thức giác quan để trở về chính
ḿnh, con người không dừng lại nơi sự vật,
nhưng vươn lên cái siêu vượt. Con người trở
thành tinh thần tự do. Con người có thể chỉ dừng lại nơi sự vật,
hoặc con người có thể
vươn lên hiện hữu tất yếu.
Người
ta thường nghe nói “con người tự do” “ư chí tự
do”, nhưng dường như không nghe nói “tri thức tự
do”. Người ta thường cho rằng tự do và lư trí
không liên hệ với nhau, nhưng thực sự tri thức
cũng liên hệ tới tự do v́ lư trí cũng bị ảnh
hưởng bởi ư chí tự do. Khi nói tri thức tự
do, phải hiểu theo văn mạch này[60].
Con
người là tinh thần, theo K. Rahner, nghĩa là, con
người trong cuộc sống luôn hướng về tuyệt
đối, luôn khai mở với Thiên Chúa[61].
Con người là tinh thần nhập thể, nghĩa là,
con người hiện diện với ḿnh, trở về với
ḿnh qua việc quy về ảnh tượng (phantasma). Con
người hiện diện với chính ḿnh qua vật thể
chứ không lệ thuộc vật thể[62].
Tự
do, đối với K. Rahner, là vượt trên tri thức
giác quan, vượt trên cảm tính; đó là tự do của
tinh thần. Tự do theo nghĩa này, là một tên gọi
khác của tiền dự (anticipation), là khả năng
vượt qua tri thức vật thể để hướng
về hữu thể tất yếu[63].
Con người không dừng lại nơi vật thể,
nhưng luôn vươn lên vượt trên vật thể,
đó mới là tinh thần; lúc đó tri thức của con
người là tri thức tự do. Nếu tri thức của
con người chỉ dừng
lại nơi vật thể th́ tri thức đó không tự
do, hay nói đúng hơn, con người đó không tự do.
Con
người có thể trở về với ḿnh bằng tri
thức phản tỉnh, có thể vươn lên khỏi vật
thể để hướng tới siêu việt thể,
đó là tinh thần. Con người là tinh thần, nghĩa
là có thể dừng lại nơi vật thể hay
vươn lên siêu việt thể. Lư trí không chỉ dừng
lại nơi sự vật nhưng vươn lên siêu việt
thể, đó là lư trí tự do. Bây giờ chúng ta sẽ xét về
ư chí nơi con người.
Ư
chí hay ư muốn, là hành vi của hiện hữu mà nếu
không có hành vi này, một hữu thể bất tất không
thể hiện hữu.
Ư
chí là hành vi tự do của hiện hữu, là hành vi tự
do của hữu thể tinh thần. Nếu một hữu
thể bất tất có thể
hiện hữu nhờ một “hiện hữu[64]”,
hàm chứa “hiện hữu này” tự do. Nghĩa là, hiện
hữu này là tinh thần, có trở về chính ḿnh, có tri thức
phản tỉnh về chính ḿnh, và siêu vượt.
Đối
với hiện hữu tất yếu tuyệt đối[65],
hành vi tri thức và hành vi ư muốn là một; c̣n đối
với tinh thần nhập thể, tức con người,
ư muốn đi theo tri thức[66].
Khi nói ư muốn đi theo tri thức, điều này đúng
khi tri thức là tri thức tự do, nghĩa là tinh thần
nhập thể vượt lên trên tri giác sự vật
để hướng tới hiện hữu tuyệt
đối. C̣n đối với tinh thần “không tự
do”, tức không hướng tới tuyệt đối, cả
lư trí lẫn ư chí đều không tự do, đều dừng
lại nơi vật thể.
Ư
muốn là hoạt động của tinh thần, là hành vi
của hiện hữu sở hữu tri thức tự do. Ư
muốn tự do, theo nghĩa siêu h́nh, là ư muốn đi theo
lư trí tự do, tức lư trí vượt qua tri thức vật
thể để vươn lên tuyệt đối. Ư muốn
không tự do, theo nghĩa siêu h́nh nhưng vẫn là ư muốn
tự do hiểu theo nghĩa tự ư, khi tuân theo lư trí không tự
do, tức lư trí chỉ dừng lại nơi vật thể,
không vượt lên trên tri thức vật thể.
Một
cách b́nh thường, chúng ta vẫn nói ư chí tự do, v́ ư chí
là hành vi tự do của tinh thần tự do, thực hiện
chính hành vi muốn đó hay không, là tùy nơi hiện hữu
tự do này.
Theo
Thánh Thomas, ư chí là tham dục trí tuệ tuân theo sự nhận
thức của lư trí. Thánh Thomas chia tham dục làm ba cấp
độ: vọng dục, nộ dục, và ư chí[67].
Tham dục tự nhiên là khuynh hướng tuân theo mô thể
tự nhiên; tham dục cảm giác là khuynh hướng tuân
theo mô thể cảm giác; tham dục trí tuệ (trí dục)
là khuynh hướng tuân theo mô thể tri thức[68].
Theo
Aristote, “tham dục là khuynh hướng hoạt động
của mọi hữu thể hướng về thiện hảo
của ḿnh”. Sở dĩ như vậy, v́ “mọi cái hoạt
động đều hoạt động hướng về
mục đích”, và mục đích đây là cái thiện hảo[69].
Theo
K. Rahner, thái độ tuyệt đối cần thiết
mà hiện hữu bất tất phải có là ư chí[70].
Khởi từ nhận định con người đặt
vấn nạn về hữu thể, K. Rahner lư luận:
“trong mức độ con người tự vấn về
hữu thể, con người khẳng định tính hữu
hạn bất tất của ḿnh, và trong mức độ
con người phải tra
vấn, con người khẳng định cách tất yếu hữu thể
bất tất của ḿnh... Điều này hàm chứa,
đối với hiện hữu hữu hạn bất tất
của ḿnh, con người phải có một thái độ;
nói cách khác, con người phải có thái độ cần
thiết đối với hiện hữu bất tất của
ḿnh... Và thái độ tuyệt đối của hiện hữu
bất tất này là ư chí”[71].
Thiện
hảo là điều mọi hiện hữu nghiêng chiều
về, thế nhưng mức độ hiện hữu
nơi mỗi hữu thể khác nhau[72],
nên cái thiện hảo của mỗi hiện hữu nghiêng
chiều về cũng ở những mức độ khác
nhau. Vật thể tự nhiên nghiêng chiều theo luật tự
nhiên, vật thể giác quan nghiêng chiều về cái thiện
hảo của nó theo bản năng, và hiện hữu tinh
thần nghiêng chiều về thiện hảo được
nhận thức bởi lư trí.
Nơi
các hiện hữu không là tinh thần, nghiêng chiều này
không thể chống cưỡng được; c̣n với
hiện hữu tinh thần, dù đây là nghiêng chiều tất
yếu nhưng là tất yếu theo bản tính được
lư trí nhận ra, th́ tinh thần vẫn tự do. Nói theo cách
vẫn thường được dùng, ư chí tự do. Chẳng
hạn nghiêng chiều hướng về hiện hữu tất
yếu tuyệt đối, hiện diện nơi mọi
hiện hữu bất tất- cụ thể là nơi con
người, thế nhưng con người vẫn tự
do, con người tự do vươn lên hay ở lại
nơi sự vật.
Nói
tới con người là phải nói tới t́nh yêu, cũng
như nói tới con người là phải nói tới tri thức.
T́nh yêu là tư thái căn bản của con người. Vậy
t́nh yêu là ǵ?
Người
ta ham mê tiền bạc danh vọng, chứ người ta
không yêu tiền bạc danh vọng, yêu là hành vi tương
quan giữa người với người, giữa ngôi vị
và ngôi vị, chứ không là tương quan giữa người
và đồ vật, giữa ngôi vị và vật thể.
T́nh yêu là tương quan liên vị.
T́nh
yêu là nghiêng chiều của một ngôi vị về một
ngôi vị. T́nh yêu là ư muốn có đối tượng là
ngôi vị[73].
Ư chí con người luôn luôn tự do. T́nh yêu là hành vi tự
do, nghĩa là con người luôn luôn có thể cưỡng
lại được. Nếu “yêu” ai tới mức độ
không thể cưỡng lại được, th́ đó
không là t́nh yêu mà là thèm muốn đam mê. Khi ấy, người
đó không tự do mà đang sống trong t́nh trạng bản
năng. Đối tượng của bản năng không
là ngôi vị nhưng là vật thể, hoặc giác thể.
Con
người có thể cưỡng
lại t́nh yêu; nhưng con người không được phép cưỡng lại t́nh yêu
v́ con người là hiện hữu tự do; nếu con
người cưỡng lại t́nh yêu, con người
không tự do đích thực.
Tương quan giữa ngôi vị và ngôi vị, giữa
người với người, phải là tương quan
t́nh yêu; nếu không là tương quan t́nh yêu, đó không là
hành vi của những hiện hữu tự do đích thực.
T́nh yêu là hành vi tự do, là ư muốn hướng tới
ngôi vị.
Con người tự
do lắng nghe mặc khải
Con
người với lư trí nhận biết sự vật qua
giác quan, nhận biết chính ḿnh, và hơn nữa có thể
vượt trên sự vật khả giác để nhận
biết hiện hữu tất yếu tuyệt đối
tự do. Với khả năng siêu vượt, con người
là tinh thần nhập thể tự do.
Con
người là tinh thần tự do. Điều này
được nhận thấy khi con người biết
ḿnh có thể chọn làm điều này hay điều kia.
Đành rằng con người có nhiều giới hạn
và tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng con người
vẫn cảm thấy và biết ḿnh tự do. Con người
biết ḿnh có thể làm hay thực hiện một hành vi bất
tất[74].
Thường
người ta nói ư muốn tự do chứ không nói lư trí tự
do, thế nhưng chính lư trí cũng có thể là lư trí tự
do hay không. Ư muốn tùy thuộc lư trí, nhưng chúng ta trong
kinh nghiệm cũng thấy có những khi muốn không theo
lư trí, lúc này con người vẫn tự do nhưng thực
sự nó không tự do đích thực. Con người tự
do đích thực khi con người theo những ǵ lư trí thấy
là đúng.
Con
người tự do đích thực, sống theo lư trí,
không dừng lại ở b́nh diện sự vật nhưng
vươn lên, siêu vượt lên khỏi vật chất
để hướng tới hiện hữu tất yếu
tuyệt đối tự do. Lư trí không tự do khi lư trí chỉ
dừng lại nơi sự vật, không vươn khỏi
sự vật để hướng tới hiện hữu
tuyệt đối, nhưng theo bản năng, theo những
ǵ thuộc về vật chất. Lúc này Voluntas non sequitur
intellectum, mà intellectus sequitur voluntatem. Và ư muốn lại theo
bản năng chứ không theo lư trí. Lư trí theo ư muốn, theo
bản năng, theo những ǵ là vật chất, không
vươn lên thực tại siêu việt, là lư trí không tự
do. Lúc đó con người không c̣n là tinh thần nữa, dù
thực sự con người vẫn có khả năng là
tinh thần (hiểu theo nghĩa, con người vẫn có
thể siêu vượt khỏi cái khả giác). Chỉ khi
nào con người với lư trí vượt lên trên cái khả
giác, vươn tới hiện hữu tất yếu, con
người mới là tinh thần đích thực, lư trí con
người mới tự do đích thực.
Dù
có nỗ lực giải thích lư do tại sao “lư trí không tự
do” nơi một số người hoặc nơi mỗi
người trong một số thời điểm khác nhau
trong cuộc đời, th́ yếu tố chính yếu vẫn
thấy, luôn nằm trong mọi hành vi “không tự do”, là con
người luôn luôn tự do. Con người có tự do thực
sự hay không, là do chính mỗi người.
Thiên
Chúa có thể mặc khải cho con người trong lịch
sử, và thực sự ngài đă mặc khải[75].
Về phía con người, v́ là tinh thần nhập thể
tự do, con người vẫn tự do, tự do lắng
nghe và đáp trả.
Đau
khổ, sự dữ là một sự kiện và là một vấn
đề gây nhiều bức xúc cho con người. Con
người thường bị dằn vặt với những
tra vấn:
con người từ đâu tới?
con người đi về đâu?
tại sao con người đau
khổ? làm sao để con người hạnh phúc?
Khao khát hạnh phúc- hiện tại
và vĩnh cửu, luôn là một vấn đề, luôn là
điều làm con người bận tâm.
Từ
ngàn xưa, con người đă khổ công đi t́m hạnh
phúc, đi t́m phương thuốc làm con người có thể
sống trường sinh bất tử! Bao nhiêu tôn giáo xuất
hiện nhằm chỉ cho con người con đường
giải thoát khỏi những đau khổ và đạt tới
cơi vĩnh phúc...
Hạnh
phúc đích thực và vĩnh cửu không hoàn toàn nằm
trong tầm tay của con người, nó là một ơn, là
sự chia sẻ và thông hiệp giữa Thiên Chúa và con
người, là chính sự sống của Thiên Chúa, là t́nh
yêu của Thiên Chúa đối với con người và của
con người đối với Thiên Chúa.
Từ thuở xa xưa cho
đến nay, con người không đặt nặng “biết”
bằng “sống”, và nhất là sống hạnh phúc. Chính
đời sống hạnh phúc sẽ chi phối cái nh́n về
mặc khải.
Sách
Sáng Thế chương 1-11, nói về tạo dựng và
tương quan giữa Thiên Chúa và con người trước
khi Abram xuất hiện[76].
a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp
Tŕnh
thuật St. 1, 1- 2, 4a cho thấy Thiên Chúa tạo dựng tất
cả bằng lời (Ngài phán, và vạn sự vạn vật
hiện hữu); Ngài tạo dựng con người giống
h́nh ảnh Ngài, Ngài ban quyền thống trị muôn loài vạn
vật cho con người; Ngài tạo dựng con người
như chóp đỉnh của muôn loài vạn sự. Theo truyền
thống tư tế (P) của tŕnh thuật này, Thiên Chúa
hài ḷng v́ những điều Ngài tạo dựng tốt
lành quá đỗi (
Tŕnh
thuật
Ở
lần san định Ngũ kinh vào khoảng năm 400
trước công nguyên, tác giả đă lấy hai truyền
thống tư tế P và truyền thống Y[78] về
tạo dựng để làm thành phần đầu của
quyển sách Kinh Thánh đầu tiên.
Trong
cái nh́n truyền thống Do Thái này, thời đầu con
người sống trong t́nh thương yêu của Thiên
Chúa; con người sống trong hạnh phúc, sống trong sự
ḥa hợp thân mật với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa
săn sóc con người (
Đau
khổ chỉ có từ khi con người phạm tội (
Điều
đáng lưu ư ở đây, không phải là con người
muốn nên một trong những vị thần linh (
Từ
khi con người phạm tội, con người cảm
thấy xấu hổ và đổ lỗi cho nhau (
Hạnh
phúc đích thực chỉ có khi con người sống
trong Thiên Chúa, trong t́nh yêu của Thiên Chúa, sống trong
tương quan tốt với Thiên Chúa. Khi con người sống
trong tương quan tốt với Thiên Chúa, con người
sẽ sống hạnh phúc với nhau.
Truyền
thống Do Thái qua các tác giả san định Ngũ Kinh lần
cuối cho thấy vấn đề sống (đau khổ
hay hạnh phúc) tùy thuộc siêu h́nh, tùy thuộc quan niệm
về nguồn gốc vũ trụ và con người. Cuộc
sống (hiện sinh) đặt vấn đề, siêu h́nh
(tri thức) giúp hiểu biết vấn đề tận
ngọn nguồn, và rồi con người giải quyết
bằng chính cuộc sống. Chỉ trong nhăn quan này, mới
thấy việc nghiên cứu mặc khải là hữu ích,
là liên hệ tới cuộc sống, là giúp con người
sống hạnh phúc, giúp con người vươn tới
ơn cứu độ.
Hạnh
phúc đă mất khi con người phạm tội.
Tương quan tốt lành giữa con người và Thiên
Chúa cũng như giữa con người với nhau, đă
bị con người phá hủy khi phạm tội;
nhưng Thiên Chúa đă nói một lời gây lạc quan hy vọng
cho con người (St. 3, 15). Thiên Chúa đi t́m con người
ngay khi con người trốn Ngài (
Tŕnh
thuật
Tội
lỗi càng ngày càng gia tăng (St. 4, 23) đến độ
đời sống con người giảm tuổi thọ
(St. 6, 3); và hơn nữa “Yahweh đă thấy sự dữ của
loài người đă ra nhiều trên đất... và Yahweh
đă hối tiếc v́ đă làm ra con người trên đất,
và Người đă phải đau phiền trong ḷng Người”
(St. 6, 5-6). Lụt hồng thủy là hậu quả của
tội (
Truyền
thống Do Thái ngay trong 11 chương đầu của
sách Sáng Thế cho thấy Thiên Chúa là Đấng Cứu
Độ, là Đấng vẫn yêu thương con người
ngay cả lúc con người đang nhận lănh h́nh phạt
như hậu quả của tội:
khi Adam phạm tội, Thiên Chúa có
lời hứa cứu độ (
khi Cain giết em, lời hứa
Cain không bị giết trả thù (
khi loài người quá tội lỗi
và bị phạt hồng thủy, Thiên Chúa cứu độ
Noe và thiết lập giao ước với ông, và qua ông với
cả loài người (St. 9, 8-17).
Thiên Chúa cứu độ con
người, để con người được sống
và sống hạnh phúc với Thiên Chúa và với nhau.
Trong
thời kỳ trước Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ
như Đấng tạo dựng vũ trụ vạn vật
và Nguồn hạnh phúc. Thiên Chúa là sự sống và là Đấng
làm cho muôn vật được sống; ở ngoài Thiên
Chúa, độc lập với Thiên Chúa, chỉ là diệt
vong.
C̣n
với Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ cho thấy Ngài là Đấng
kêu gọi ông, đề nghị ông đi tới nơi Ngài
sẽ chỉ cho ông, hứa sẽ cho ông có con nối ḍng[80]
và sẽ cho con cháu ông trở thành một dân lớn, làm ông
trở thành nguồn chúc phúc và bảo vệ ông.
Abram
là con của Têrakh, quê ở xứ Kanđê. Têrakh đă
đưa con cái ḿnh xuống
Thiên
Chúa đă phán với Abram[81]:
“hăy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán
ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất
Ta sẽ chỉ cho ngươi; Ta sẽ cho ngươi
thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta
sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ
là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc
lành cho ngươi, ai mà nói động đến
ngươi, Ta sẽ chúc dữ, mọi thị tộc trên
trần sẽ lấy ngươi mà cầu chúc cho nhau” (
Lời
hứa này thật quan trọng đối với Abraham, v́
Sara không có con; và không con là một tội lớn đối
với năo trạng đông phương: tuyệt tự! Lời
Thiên Chúa phán với ông, bảo đảm rằng ông sẽ
có con nối ḍng, và ḍng giống từ nơi ông sẽ thành
một dân lớn mạnh.
Thiên
Chúa và lời hứa của Ngài đối với Abraham,
chi phối trọn đời Abraham. Abraham đă đi theo
lời Chúa phán bảo ông (
Thiên
Chúa hứa ban đất cho ḍng giống Abraham! C̣n với
Abraham? “Hăy ngước mắt lên và từ chỗ
ngươi đứng, hăy nh́n từ phía:
Lời
Chúa hứa với Abraham đang được thực hiện,
nghĩa là lời hứa này chưa hoàn toàn thành tựu; v́
thế Thiên Chúa vẫn thường lập lại lời
hứa này với Abraham:
“Sau các điều ấy, lời
của Yahweh đến với Abraham trong thị kiến mà
rằng: Đừng sợ, Abram, Ta là khiên mộc cho
ngươi; phần thưởng ngươi sẽ bội
hậu. Abram thưa: Lạy Chúa Yahweh, người sẽ
ban ǵ cho tôi, trong khi tôi vô hậu ra đi c̣n kẻ thừa tự
gia đ́nh tôi lại là Êliêzer, người ở Dama...
Và này lời Yahweh phán với ông rằng:
Nó sẽ không thừa kế ngươi đâu, những kẻ
sẽ phát xuất từ ḷng dạ ngươi sẽ kế
thừa ngươi.
Người đă dẫn ông ra ngoài
trời và phán: Hăy nh́n lên trời, và hăy đếm tinh sao, nếu
ngươi có tài đếm được chúng. Đoạn
người phán bảo ông: Ḍng giống ngươi sẽ
như thế. Và Abram đă tin vào Yahweh và sự ấy
Người đă kể cho ông như sự công chính (
Lời
hứa ban phần đất cho Abraham và con cháu ông cũng
được lập lại:
“Người đă phán với
ông: Ta, Yahweh, Ta đă đem ngươi ra khỏi
“Ngày hôm ấy Yahweh đă kết
ước với Abraham rằng: cho ḍng giống người,
Ta sẽ ban thửa đất này từ sông Ai cập cho
đến sông Cả, sông Phơrát...” (
Giao
ước là lời thề hứa long trọng có điều
kiện kèm theo.
Năm
Abram[82]
được 99 tuổi, Thiên Chúa đă kư kết giao ước
với Abram, và đổi tên ông thành Abraham (
Sáng
Thế tŕnh bày giao ước này trong chương 17:
“Khi Abram được 99 tuổi,
th́ Yahweh đă hiện ra cho ông và phán với ông: Ta là
El-Shadday, hăy bước đi trước mặt Ta và ở
cho trọn lành. Ta sẽ ban giao ước giữa Ta và
ngươi, Ta sẽ cho ngươi sinh sôi đông lắm,
đông lắm.
(Và) Abram phục ḿnh sấp mặt
xuống.
Và Thiên Chúa phán bảo ông rằng:
Phần Ta, này giao ước của Ta với
ngươi:
ngươi sẽ là cha của hằng
hà sa số dân tộc...
Ta sẽ lập giao ước giữa
Ta và ngươi, và ḍng giống ngươi sau ngươi
qua các thế hệ, làm giao ước vạn đại,
ngơ hầu Ta là Thiên Chúa của
ngươi và của ḍng giống ngươi sau
ngươi.
Và Ta sẽ ban cho ngươi và
ḍng giống ngươi sau ngươi đất
ngươi nương ngụ, toàn cơi đất
(Và) Thiên Chúa phán với Abram:
C̣n ngươi, ngươi sẽ giữ lấy
giao ước của Ta, ngươi và ḍng giống
ngươi sau ngươi, qua các thế hệ. Này là giao
ước các ngươi sẽ giữ lấy, giữa Ta
và các ngươi, và ḍng giống ngươi sau
ngươi: mọi nam nhân trong các ngươi đều sẽ
chịu cắt b́” (
b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người
Tương
quan giữa Abraham và Thiên Chúa, cũng chính là tương quan
giữa Thiên Chúa và con người.
Trong
những đoạn St.12 và St.15 cùng St.17, Thiên Chúa là Đấng
ban cho Abraham lời hứa và giao ước; c̣n trong St. 18
Thiên Chúa cư xử thật thân t́nh đối với
Abraham:
Thiên Chúa đă hiện ra cho Abraham
nơi cây sồi Mamrê dưới dạng ba người
(St. 18, 1); Thiên Chúa đă chấp nhận để
được Abraham hầu hạ phục vụ (St. 18,
3-5); Yahweh đă tỏ cho Abraham biết những điều
kín, những điều Người sắp làm (St. 18, 16-21)
sau khi đă thăm hỏi tṛ chuyện với Abraham về
những chuyện riêng của ông như gia đ́nh vợ
con (St., 18, 9-15);
Abraham đă nài nỉ xin Chúa đừng
phạt dân Sođôm nếu ở đó chỉ có 10 người
công chính.
Yahweh
đối xử với Abraham thật thân thiết (
Yahweh
Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban lời hứa và kư kết
giao ước với Abraham, Ngài c̣n là Đấng đ̣i hỏi
con người phải tin tưởng tuyệt đối
vào Ngài. Chính Thiên Chúa đă phán với Abraham: “nơi Ysaac,
ngươi sẽ có ḍng giống đội tên
ngươi” (St. 22, 2); nhưng cũng chính Thiên Chúa đă
phán cùng ông “Abraham, ngươi hăy lấy con ngươi, con
một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac, mà
đi tới đất Moriyah và ở đó, hăy dâng nó làm của
lễ thượng tiến trên một quả núi Ta sẽ
tỏ cho ngươi” (St. 22, 2).
Abraham
đă làm theo lời Chúa phán cùng ông! “Khi họ đến
nơi Thiên Chúa phán cùng ông, th́ Abraham xây tế đàn ở
đó, rồi sắp củi, và trói Ysaac con ông mà đặt
lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham
giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con” (St.
22, 9-10). Nhưng thần sứ Gia-vê từ trời phán bảo
ông:
“Abraham, Abraham, đừng giơ
tay hại đứa trẻ, đừng làm ǵ đến
nó, v́ bây giờ ta biết ngươi là người kính sợ
Thiên Chúa: con một ngươi, ngươi đă không từ
chối với Ta” (
“Lần thứ hai thần sứ
Yahweh gọi Abraham từ trời và phán: Ta lấy ḿnh Ta, Ta
thề, sấm của Yahweh: v́ ngươi đă làm điều
ấy, và đă không từ chối (với Ta) con một
ngươi, th́ Ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, Ta sẽ
làm cho ḍng giống ngươi nên đông, nên nhiều
như sao trên trời, như cát băi biển, và ḍng giống
ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch. Mọi
dân thiên hạ sẽ lấy ḍng giống ngươi mà cầu
phúc cho nhau, bởi v́ ngươi đă vâng nghe tiếng Ta” (
Mặc
khải là hành vi Thiên Chúa cứu độ con người!
Ngài tỏ cho con người biết Ngài là ai và con người
là ai (St. 1-2), Ngài cũng tỏ cho Abraham và qua Abraham cho tất
cả mọi người, biết: Ngài đă tuyển chọn
Abrham, Ngài trở thành Đấng ban lời hứa và Đấng
bảo vệ Abraham trong suốt đời ông.
Thiên
Chúa là Đấng tuyển chọn Abraham, là Đấng ban
lời hứa, là Đấng bảo vệ Abraham. Nhưng nếu Abraham không biết th́ Abraham đă không thể đáp trả
lời mời gọi và những đ̣i hỏi của Thiên
Chúa, và nếu vậy Abraham đă không được cứu,
và như vậy việc Thiên Chúa tuyển chọn Abraham có
ích ǵ cho ông? Con người chỉ là người trọn vẹn
khi con người hành động một cách tự do, có ư
thức. Chính v́ thế Thiên Chúa đă tỏ lộ cho con
người biết về Thiên Chúa, về chính con người,
và về cả vũ trụ nữa.
Thiên
Chúa th́ vô h́nh; c̣n con người là tinh thần và thân xác; con
người thiết yếu biết qua trung gian khả
giác. Ở đây không thấy Kinh Thánh đề cập
đến bằng cách nào Abram biết được là
Chúa phán với ông; nhưng một điều Kinh Thánh khẳng
định: “Yahweh phán với Abram”, Abram đă ư thức
điều này với tất cả sự chắc chắn,
không có một chút xíu nghi ngờ.
iii.
Lời trong thị kiến, trong mộng
Lời
hứa Thiên Chúa đă ban cho Abraham, Ngài lập lại với
Ysaac: “Đừng xuống Ai cập; hăy ở lại trong xứ,
ta sẽ nói cho ngươi. Hăy ngụ lại trong xứ
này: Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ chúc lành cho
người và Ta sẽ ban cho ngươi, và ḍng giống
ngươi tất cả xứ này. Ta sẽ giữ lời
Ta thề với Abraham cha ngươi. Ta sẽ cho ḍng giống
ngươi nên đông đảo như sao trên trời, Ta sẽ
ban cho ḍng giống ngươi tất cả các xứ này. Mọi
dân thiên hạ sẽ lấy ḍng giống ngươi mà cầu
phúc cho nhau, bởi chưng Abraham đă vâng nghe Lời Ta và
đă giữ trọn đạo với Ta, các luật
điều, các thánh chỉ của Ta” (
Cũng
tại Ghêrar này, “Yahweh đă hiện ra cho ông chính đêm ấy
và phán: Ta là Thiên Chúa của Abraham, cha ngươi. Đừng
sợ, v́ Ta ở với ngươi! Ta sẽ chúc lành cho
ngươi, Ta sẽ cho ḍng giống ngươi nên đông
đảo, v́ Abraham tôi tớ của Ta” (
Trong
hai lần mặc khải cho Ysaac được trích ở
trên , Kinh Thánh nói Thiên Chúa hiện ra và phán
(
Trong
hai lần hiện ra, Thiên Chúa đều nhắc tới
Abraham; ngoài những tên để chỉ Thiên Chúa như
El-Roy, El-Shadday, c̣n thấy xuất hiện một cách để
chỉ Thiên Chúa, đó là: Thiên Chúa của Abraham (
Những
điều Thiên Chúa đă hứa với Abraham và Ysaac, th́
Ngài cũng lập lại với Yacob. Thiên Chúa đă hiện
ra với Yacob trên đường ông tới
“Yacob đă tỉnh giấc và nói:
hẳn thật có Yahweh ở chốn này mà tôi không biết”
(
“Yacob đă khấn với Chúa rằng:
Nếu Thiên Chúa ở cùng tôi, và ǵn giữ tôi trên đường
tôi đang đi, nếu người cho tôi có bánh ăn, áo mặc,
nếu tôi được trở về nhà cha tôi b́nh an vô sự,
th́ Yahweh sẽ là Thiên Chúa của tôi và viên đá tôi đă dựng
làm thạch trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa. Và trên mọi
điều Người ban cho tôi, tôi sẽ trích thập
phân dâng Người” (
Đọc
các tŕnh thuật ghi lại cuộc đời của Yacob,
người ta thấy quả thực Thiên Chúa đă dẫn
dắt ông, đă đưa ông đi và dẫn ông về. Sau
khi Yacob đă có vợ con và tài sản, chính Thiên Chúa đă ra
lệnh cho ông trở về: “Yahweh phán bảo Yacob: Hăy trở
về đất cha ông ngươi ở, về quê quán của
ngươi và Ta sẽ ở cùng ngươi” (
Thiên
Chúa cũng đă can thiệp với Laban để ông không
đụng chạm ǵ tới Yacob (
Yahweh
Thiên Chúa đă hứa Ngài sẽ ở với ông, và điều
này thể hiện qua cuộc đời của ông, qua những
may mắn ông gặp trên đời, qua những tài sản
ông kiếm được. Điều này chính Yacob cũng
đă thấy khi ông đến Bêthel dâng lời tạ
ơn Thiên Chúa: “hăy khử bỏ các thần xa lạ khỏi
giữa các ngươi, hăy thanh tẩy ḿnh và thay y phục.
Rồi ta hăy chổi dậy đi lên Bêthel. Ở đó tôi sẽ
làm tế đàn kính Thiên Chúa, Đấng đă nhậm lời
tôi trong ngày quân bách, Đấng
đă ở với tôi trên đường tôi đi” (
Thiên
Chúa đă ở với Yacob để giải cứu ông,
để độ tŕ ông làm ăn phát đạt. Yahweh
đă thành nguồn hạnh phúc của Yacob.
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] S. THOMAE in Arist. Librum De Anima Commentarium, n. 21
[2] Một vài từ ngữ được dùng ở đây tương ứng với từ ngữ tiếng nước ngoài:
trí khôn, lư trí: intellect hay intelligence, intellectus, Vernunft, ...
trí tưởng tượng: imagination, phantasia, ...
lư nhớ: mémoire, memoria, ...
lư trí: raison, ratio, Vernunft, ...
trí hiểu: entendement, Der Vernunft.
Điều này không có nghĩa có nhiều lư trí, nhưng nhằm diễn tả những khả năng của lư trí con người.
Để hiểu có khi phải suy luận, nhưng có khi là sự nắm bắt trực giác không qua suy luận; như vậy trí hiểu có thể nằm trong lư trí (trí hiểu như khả năng lư luận của trí khôn) hoặc trí hiểu có thể được dùng để chỉ chính trí khôn.
Lư trí, theo Đào Duy Anh trong Hán Việt Từ
Điển in tại
[3] chẳng hạn ư niệm “cái bàn” phổ quát có thể ứng dụng với mọi cái bàn cụ thể.
[4] eidos là từ ngữ được Platon dùng để chỉ nguyên mẫu của những vật thể của thế giới khả giác; từ ngữ ư niệm (eidos, idée) ở đây không trùng với nghĩa được Platon dùng.
[5] Tự do, công b́nh, bác ái, được hiểu là quan niệm v́ nó không được trừu xuất từ những vật thể cụ thể trực tiếp nhưng nó được tạo thành do suy luận, do phán đoán. Thực ra chúng cũng có thể được gọi là những ư niệm, nhưng là những ư niệm “cấp cao”.
[6] phán đoán về tri thức, lối sống, cách hành xử của con người.
[7] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 40
trích dẫn S. THOMAE in III De Anima, lect. 12, nn. 781-785
[8] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 49
K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 254:
Nihil sine phantasmata intelligit anima (linh hồn không hiểu ǵ nếu không có ảnh tượng).
Theo từ điển Latin-Pháp của Quicherat:
phantasia, ae, f.: vision, imagination, simulacre
Phantasma, atis, n.: être imaginaire, simulacre
cả hai đều từ tiếng Hylạp.
[9] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 41
[10] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 37 note 5 trích dẫn
S. THOMAE in Boeth. de Trin., q. 6, a. 2, ad 5: “Phantasma est principium nostrae cognitionis ut ex quo incipit intellectus operatio, non sicut transiens sed sicut permanens ut quoddam fundamentum intellectualis operationis, sicut principia demonstrationis oportet manere in omni precessu scientiae.
[11] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 19
[12] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 717. 718. 762
[13] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 791. 794
[14] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 718
[15] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 86-87
[16] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 36
[17] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 132
[18] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 111
[19] S. THOMAE, Contra Gent., IV, 11 trích bởi
K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128
[20] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 129
[21] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128
[22] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, pp. 248. 113
[23] S. THOMAE, S.T., I, q. 84, a.7, ad 3 trích dẫn bởi
K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14
[24] S. THOMAE in Boeth. De Trinit., q. 6, a. 2, corp.
trích bởi K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14
[25] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 248
Ở chỗ khác, Rahner nói:
Tiền dự là sự khai mở của ư thức chúng ta về chân trời, mà trong chân trời đó đối tượng đặc thù của tri thức nhân linh được lănh hội (op. cit., p. 114).
Tiền dự là điều kiện để có ư niệm phổ quát, để có trừu xuất; Và đến lượt ḿnh, trừu xuất là điều kiện để có khách thể hóa dữ kiện khả giác, và như vậy cũng là điều kiện để có tri thức (op. cit., p. 113).
Tiền dự như vậy không là sự hiểu biết tiên thiên về một đối tượng, nhưng là chân trời được ban cùng với yếu tính con người, và như vậy, nó là điều kiện tiên thiên của tri thức về một hiện tượng hậu thiên (op. cit., p. 249).
[26] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 112. 113. 115
[27] S.
THOMAS, ST. I, q. 79, a. 3, corp: “Oportebat igitur ponere aliquam virtutem ex
parte intellectus, quae faceret intelligentia in actu, per abstractionem
specierum a conditionibus materialibus. Et haec est necessitas ponendi
intellectum agentem
K. RAHNER, L'Esprit dans le monde p. 150
K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 111. 113
[28] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 205
S. THOMAE, De Anime, a. 5, corp;
In IV Met., lect.6, n.599
[29] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 80
K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 85
trích dẫn S. THOMAE, Contra Gent., II, 98
[30] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:
Connaitre n’est pas une actio (production d’un acte d’appréhension) mais un actus, c’est-à-dire une réalité qui est-auprès-d’elle-même”
(De Verit., q. 8, a. 6, corp. và S.T., I, q. 18, a. 3, ad 1)
[31] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:
“Connaitre, c’est être-auprès-de-soi, c’est l’état de réflexion sur lui-même d’un être doué d’une puissance d’être déterminée”.
[32] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 87
Từ ngữ “thể tri” ở đây được dùng để dịch chữ Erkennen tiếng Đức của K. Rahner. Nếu đọc bản dịch tiếng Pháp, dịch giả bản tiếng Pháp lại dùng từ “Connaissance”.
Một vài từ ngữ được dùng ở đây:
tri thức: connaissance, connaitre
thể tri: connaitre, erkennen
tri thể: connaissant, sujet qui connait, cognoscens
cái được biết, thụ tri thể: cognitum, intellectum
khả tri thể: cognoscibile, intelligibile (tĩnh từ dùng như danh từ).
[33] étant connaissant. Chủ tri: sujet qui connait.
[34] reditio subjecti in seipsum. Bei-sich-sein.
[35] Cognoscens in actu et cognitum in actu sunt idem.
Cf. F-J. THONNARD, Précis d’histoire..., p. 108
[36] S.THOMAE, ST. I, q. 87, a.1, ad 3: “Idem est intellectus et quod intelligitur”, trích bởi K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 81
[37] S. THOMAE, Contr. Gent. II, 98: “Intellectum est perfectio intelligentis”;
II, 99: “Intellectus in actu perfectio est intellectum in actu”
trích bởi K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p.81. 85-86
[38] K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p. 82
Op. cit., p. 80:
“Intelligibile enim et intellectum oportet proportiona esse et unius generis (d’une seule origine), cum intellectus et intelligibile in actu sint unum” (Car autrement l’unité effective de l'être et du connaitre dans la connaissance en acte ne pourrait être rendue intelligible dans sa possibilité).
Khả tri thể và lư trí phải tương xứng và cùng một loại; lư trí và thụ tri thể là một trong hiển thể. “Idem intellectus et intellectum et intelligere” (p. 80).
“Ens est intelligibile et intelligens, in quantum est ens actu”
trong In II Met., livre I, n. 280
được trích bởi K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 86
Tính khả tri là khả năng hiện diện với ḿnh, v́ thế tính khả tri có nhiều mức độ khác nhau (la cognoscibilité est pouvoir-être-auqrès-de-soi...) (Esprit dans le monde, p. 84).
Mức độ chủ thể tính cho thấy một hiện thể sở hữu hữu thể ở mức độ nào (RAHNER, L'Esprit...,p. 83: le degré de cette “subjectivité” indiquent inversement quelle mesure de puissance d'être possède un étant).
Tri thể và thụ tri thể đều là hữu thể. Khả tri tính tương ứng với chủ thể tính. Tri thể và thụ tri thể là một trong hiển thể, bởi v́ cả hai là hữu thể, và bởi v́ cả hai đều là hữu thể trở về chính ḿnh của hiện thể.
[39] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139. 91-92
[40] “Lư trí chúng ta trong t́nh trạng hiện tại, t́nh trạng liên kết với thân xác, không thể biết ǵ (ở hiển thể) nếu không trở về với ảnh tượng”.
C̣n với với tác phẩm của Aristote được thánh Thomas chú giải:
ARISTOTE, De Anima, Lib. III, lect. XII, c. VII: “... propter quod numquam sine phantasmate intelligit anima” (Lư trí (linh hồn) không biết ǵ nếu không nhờ ảnh tượng)
trong S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., nn. 772. 791. 854
[41] S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., n. 767:
Intellectus proprium est facere affirmationem vel negationem.
[42] Op. cit., p. 793:
Intellectus solius est cognoscere verum et falsum.
[43] Ở đây chúng ta không đứng trên quan điểm Kinh Thánh; nhưng ngay cả với Kinh Thánh, ư định cứu độ của Ngài cũng không đồng nhất với sự thánh thiện và tốt lành của Ngài. Nói một cách nôm na: Thiên Chúa tốt lành và thánh thiện, nhưng không phải v́ vậy mà Ngài buộc phải cứu độ con người.
Cf. K. RAHNER, art. “Salvation”
trong SACRAMENTUM MUNDI, V, HERDER and HERDER 1970, p. 406
[44] Chẳng hạn để diễn tả t́nh yêu giữa hai người với nhau, họ có thể dùng nhiều cách khác nhau, và không buộc phải theo một công thức cố định nào!
[45] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 201:
Dieu peut révéler uniquement ce que l’homme peut entendre... Mais ladite proposition devient fausse si l’on la modifie en disant...
[46] nghĩa là nếu Thiên Chúa không muốn thay đổi cơ cấu con người.
[47] M. A. BAILLY, Abrégé du Dictionnaire Grec-Français, PARIS 1961, từ ngữ Logos
[48] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum, LIPSIAE 1905, từ ngữ DABAR
[49] J. L.
McKENZIE, Dictionary of the Bible,
“The dynamic reality of the Word is accompanied by its dianoetic reality (O. Procksch). Hb uses “word” where we use “thing” or “deed”. The word as name gives the thing intelligibility; but the thing does not acquire full reality until it gets a name and becomes intelligible. In conferring the name the person exercises his dynamism by which he makes the thing real; in knowing the name the person exercises his dynamism in the reverse direction and “apprehends” the word-thing”. (page 938).
[50] Như vậy, giả như Thiên Chúa mặc khải trong giấc mộng, th́ những ảnh tượng (phantasma) hiện diện nơi lư trí trong giấc mơ vẫn có thể được coi như lời.
Hiểu theo nghĩa rộng hơn, lư trí chính là lời. Nếu Thiên Chúa mặc khải ǵ cho con người, th́ mặc khải cho con người qua lư trí. (Câu khẳng định này là thừa, nhưng nó giúp hiểu rơ khẳng định: Thiên Chúa mặc khải cho con người qua lư trí).
Theo K.Rahner, lời thích hợp để hiểu thực tại siêu thế giới, v́ lời có khả năng phủ định. Lời có thể phủ định những ǵ được xác định nơi thực tại trần thế để vươn lên thực tại siêu việt.
(Cf. K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 270)
[51] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 200-201
[52] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 266
[53] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 203
Theo M.A. BAILLY, op. cit., từ ngữ HISTORIA:
Lịch sử là điều con người t́m hiểu và khám phá rồi kể lại. Như vậy, nếu con người chỉ nh́n biến cố như những ǵ t́nh cờ chứ không do một lư trí hay một hành vi của hiện hữu tự do (cố ư) thực hiện, th́ biến cố đó đâu có ư nghĩa ǵ.
Với người Do Thái, biến cố lụt hồng thủy có nghĩa v́ nó được nh́n như hành động của hiện hữu tự do là Thiên Chúa.
Trong Linh Thao số 102. 111, thánh Ynhă gọi là lịch sử những ǵ đức tin cho biết về những quyết định của Thiên Chúa.
[54] v́ là hành động của hiện hữu tự do.
[55] Lịch sử dân Do thái thực sự đă là lời để dân Do Thái nhận biết Thiên Chúa và ư định của Ngài trên dân. Các tiên tri là những người đă đọc được các lời này một cách rơ nét và đă loan báo lại cho dân.
Những biến cố lịch sử nhân loại, do con người là những hữu thể tự do thực hiện, đă trở thành lịch sử mang tính thần linh, là lời thần linh giúp con người nhận biết Thiên Chúa.
[56] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 220. 88. 94. 97. 99
[57] K.RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 220-221
S. THOMAE AQ., In Arist. Libr. De Anima commentarium, n. 377: “Cognitio autem omnis fit per hoc, quod coggnitum est aliquo modo in cognoscente, scilicet secundum similitudinem”: tri thức là có cái ǵ tương tự cái được biết nơi chủ tri.
[58] K. RAHNER., op. cit., pp. 104-105. 225
khả năng phản tỉnh, biết ḿnh và siêu vượt.
[59] K. RAHNER, op. cit., p. 208
K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139
[60] Về lư trí tự do, đức Phật và S.Freud đă nói về trường hợp lư trí bị hủ hóa bởi tư lợi. Xem thêm: LNC., Dẫn Nhập Thần học, ĐL. 38, trg. 25
[61] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 124-125. 79
[62] K. RAHNER, L' Esprit Dan Le Monde, p. 291 trích dẫn
De Verit., q. 10, a. 8, ad 4:
“Non tamen materiae subditur, ut materialis reddatur”.
De Verit., q. 19, a. l corp.:
“Hoc lumen (intellectuale) non est corpori obligatum”
[63] K. RAHNER, op. cit., pp. 286. 290. 191
[64] hiện hữu này có thể là hiện hữu bất tất đối với hiện hữu tất yếu tuyệt đối.
[65] Thiên Chúa
[66] ư chí đi theo lư trí (voluntas sequitur intellectum).
[67] ST. THOMAE AQUINATIS in Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI 1959, n. 288:
“Quod quidem dividitur in tria: scilicet desiderium, quod est secundum vim concupiscibilem; et iram, quae est secudum vim irascibilem: qui duo appetitus pertinent ad partem sensitivam: sequuntur enim apprehensionem sensus. Tertium autem est voluntas, quod est appetitus intellectivus, consequens scilicet apprehensionem intellectus” (Lib. II, lect. V, c. III).
[68] Op.cit.,n. 286:
Appetitus naturalis est inclinatio sequens formam naturalem; Appetitus sensibilis est inclinatio quaedam quae sequitur ad formam sensibilem; Appetitus intelligibilis est inclinatio quae sequitur ad formam intelligibilem.
[69] F-J. THONNARD, Précis d’histoire ..., p. 116
[70] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 156
[71] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 155-156
[72] người ta đă lấy khả năng tri thức làm chuẩn đánh giá mức độ hữu thể này.
[73] K. RAHNER, L' Homme à L'écoute Du Verbe, p. 176: 'L'amour est la volonté lumineuse qui veut la personne dans son unicité irréductible'.
[74] Chẳng hạn con người thấy ḿnh có thể ăn hay không ăn, ăn lúc này hay lúc khác, và thậm chí có thể tuyệt thực quyên sinh để bảo vệ hoặc cảnh cáo hay phản đối điều ǵ đó.
[75] Thiên Chúa đă mặc khải, điều này được nhận biết khi tra vấn lịch sử. Điều này sẽ được làm trong phần mặc khải theo Kinh Thánh.
[76] Sáng Thế được san định lần cuối vào khoảng năm 400 trước công nguyên; nhưng con người đă xuất hiện trên trái đất khoảng hơn một triệu năm rồi, c̣n Abraham mới chỉ cách chúng ta đây chưa đầy bốn ngàn năm (Abraham xuất hiện khoảng 1850 năm trước công nguyên).
[77] Con
người được đặt tên cho muôn vật (
[78] Truyền thống của miền nam, tức Yuđa.
[79] Thiên
Chúa đă cho con người sự sống của Ngài (
[80] v́ Sara son sẻ không con (St.11, 30)
[81] Abram
là tên của Abraham trước khi Thiên Chúa đổi tên cho
ông (
[82] Dựa
theo Sáng Thế chương 16, 16: “Abram sống được
86 tuổi, khi Hagar sinh ra Ismael cho Abram”. Và dựa vào St. 16, 3:
“Măn 10 năm Abram lập cư ở đất Canaan, Saray,
vợ của Abram đă đem Hagar, thị tỳ của
bà, mà dâng nàng làm thiếp cho Abram chồng bà. Ông đă ăn ở
với Hagar, và nàng đă có thai. Năm 99 tuổi, Abram đă
cắt b́ để thực thi điều kiện giao
ước của Yahweh, và Ismael đă 13 tuổi (St.17,
24.25). Như vậy, dựa vào sách Sáng Thế, Abram đến
định cư ở
[83] Thiên
Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm (
[84] El-Roy có nghĩa là Thiên Chúa của thị kiến.
[85] Xem chú
thích trong bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn,
nxb. D̉NG CHÚA CỨU THẾ - SG. 1976, chú thích