HOME    LỜI CHÚA    ĐỨC TIN    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG     IN ENGLISH    VỀ TÁC GI

Dẫn Nhập Thần Học   Mặc Khải   S Sống Nếu Bạn Tin   Thiên Chúa Ba Ngôi   Tôn Giáo Ngoài Kitô   Ân Sủng  Biểu Tượng

Mặc Khải        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

 

MẶC KHẢI

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ

 

MỤC LỤC:

 

C. MÔI TRƯỜNG MẶC KHẢI 1

1. Tri thức của con người tại thế. 1

a. Lư trí 2

b. Tri thức. 5

2. Lời- phương tiện và môi trường mặc khải 6

a. Mặc khải qua lời 6

b. Mặc khải như biến cố lịch sử. 7

3. Tự do lắng nghe. 8

a. Tinh thần nhập thể. 8

b. Yêu thương- hành vi tự do. 11

Lược tóm.. 11

PHẦN II: MẶC KHẢI TRONG KINH THÁNH. 13

A. CỰU ƯỚC. 14

1. Cái chết đến từ con người 14

a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp. 14

b. Tội- nguyên nhân đau khổ. 14

2. Tuyển chọn Abraham.. 16

a. Lời hứa. 16

b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người 17

c. Trung gian mặc khải 18

3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử. 20

 

C. MÔI TRƯỜNG MẶC KHẢI

          Khởi từ sự kiện con người có tri thức về những vật thể qua giác quan, và với khả năng của lư trí, con người đă vươn lên nhận biết sự hiện hữu của hữu thể tất yếu tuyệt đối.

1. Tri thức của con người tại thế

          Một lư giải về lư trí và tri thức.

a. Lư trí

          Trí khôn hay lư trí là yếu tố cấu thành của con người xét như tinh thần nhập thể. Nói theo ngôn từ của thánh Thomas Aquinô, lư trí là mô thể lập hữu[1]. Trí khôn có nhiều khả năng (trí năng) như nhớ (trí nhớ), tưởng tượng (trí tưởng tượng), suy luận (lư trí) để đi tới phán quyết[2]. Phán quyết này có thể:

tạo thành tri thức giác quan như khi khẳng định “cái bàn này trắng” v.v...,

hoặc có thể tạo thành tri thức siêu việt do suy luận, như “tôi là hữu thể bất tất, vậy phải hàm chứa có hiện hữu tất yếu, v́ nếu không, đâu có hiện hữu bất tất là tôi”,

hoặc làm thành tiếng lương tâm khi phán quyết về chính hành vi cư xử của ḿnh như “tôi không được làm như vậy v́ làm như vậy là trái phẩm giá con người, tôi phải làm điều kia v́ như vậy tôi mới sống xứng đáng làm con Chúa, v.v...”.

          Trí tưởng tượng (phantasia) vận hành với những ảnh tượng (phantasma, phantasmata) và thường ở t́nh trạng vô thức. Các vật thể được tiếp nhận qua giác quan và h́nh thành các ảnh tượng (phantasma, phantasmata) nơi trí năo. Lư trí trừu xuất từ những ảnh tượng này, để có những ảnh niệm[3]. Ảnh niệm (species intelligibilis) có thể được hiểu là ư niệm (eidos[4]), dùng để chỉ cái phổ quát đă được trừu xuất từ những vật cụ thể. Qua trung gian những ảnh niệm, lư trí với khả năng suy luận tạo thành những ư niệm mới hoặc những quan niệm, chẳng hạn tự do, công bằng, bác ái[5]...

          Không sai lầm với ảnh tượng, ảnh niệm. Sai lầm và chân thực chỉ có khi phán đoán; chẳng hạn khi khẳng định “đó là cái bàn”, “cái bàn này màu trắng”, “anh đó là người bác ái”...! Chỉ có tinh thần, mới có thể tự phán đoán hay đánh giá ḿnh đúng sai. Đánh giá đúng sai, là phán đoán về phán đoán của con người[6], kể cả ḿnh.

i. Ảnh tượng

          K. Rahner trích dẫn tác phẩm thánh Thomas chú giải Aristote “linh hồn không có tri thức trí tuệ nếu không trở lại với ảnh tượng[7]”. Thánh Thomas cho rằng yếu tính của lư trí con người phải được xác định khởi từ việc kết hợp với thân xác, và sự kết hợp này được diễn tả trong conversio intellectus ad phantasma, nghĩa là trở lại với trí tưởng tượng[8].

          K. Rahner đă thấy vấn đề trở về với ảnh tượng (conversio ad phantasma) là vấn đề khả thể của siêu h́nh học, và K. Rahner cho rằng có thể xây nền siêu h́nh học của ḿnh dựa trên S.T. I, q. 84, a.7: “Liệu lư trí có thể biết nhờ những ảnh niệm có nơi ḿnh, mà không trở về với ảnh tượng không (Utrum intellectus possit actu intelligere per species intelligibilis quas penes se habet, non convertendo se ad phantasma)[9]?”.

          Theo thánh Thomas, ảnh tượng là khởi đầu của tri thức con người v́ khởi từ nó lư trí hoạt động[10]. Đối tượng của lư trí là ảnh tượng[11], nhưng đối tượng riêng của lư trí là yếu tính của sự vật như được trừu xuất và không tách rời khỏi sự vật khả giác[12]. Ảnh tượng là cái tương tự của sự vật khả giác[13].

ii. Ảnh niệm

          Ảnh niệm (species intelligibilis), theo thánh Thomas, không là đối tượng của lư trí, nhưng là cái nhờ đó mà lư trí biết[14]. Ảnh niệm không có nghĩa là một “h́nh ảnh hữu ư” nào đó, nhưng là sự hoàn hảo hữu thể của tinh thần xét như hiện thể[15], là yếu tố làm tri thức có nền tảng khả hữu nội tại[16].

iii. Trừu xuất và siêu vượt

          Trừu xuất (abstractio), trở lại với ảnh tượng (conversio ad phantasma), và siêu vượt (excessus), là những khả năng của lư trí (intellectus), là những tiến tŕnh để tri thức.

          Trừu xuất, xét như nó là sự thủ đắc ư niệm phổ quát, là thực hiện việc trở lại của chủ thể với chính ḿnh (reditio subjecti in seipsum)[17]. Bởi trừu xuất, con người nắm bắt cái tổng quát trong cái đặc thù, và nhờ đó có phán đoán[18]. Khả năng trở lại hoàn toàn với chính ḿnh, là nét đặc trưng cơ bản của lư trí[19].

          Trở lại với ảnh tượng (conversio ad phantasma) là tính chất riêng và nội tại của chính hành vi trừu xuất[20]. Trừu xuất và trở lại với ảnh tượng, không được coi là hai thời kế tiếp nhau, nhưng cả hai đều là điều kiện hỗ tương, và tạo thành tri thức duy nhất của con người[21]. Tuy chúng được đề cập kế tiếp nhau, và được xét như những tiến tŕnh kế tiếp nhau, nhưng thật sự chúng là một để làm thành tri thức nơi con người.

          Siêu vượt ở đây là từ ngữ dùng để dịch chữ la-tinh excessus, nhưng chữ siêu vượt (hay siêu việt) thường được dùng để dịch chữ transcendance (tiếng Anh và Pháp). Với K. Rahner, tiền dự (anticipation, Der Vorgriff) là siêu vượt[22].

          Theo thánh Thomas, siêu vượt (excessus) cần thiết để lănh hội các đối tượng của khoa siêu h́nh, mặc dầu cái khả giác vẫn được coi như vùng đất thường trực của tri thức con người[23]. Ở một chỗ khác, siêu vượt và phủ nhận (remotio) xuất hiện như những điều kiện thủ đắc đối tượng siêu h́nh[24].

          Theo K. Rahner, tiền dự là sự siêu vượt của tinh thần, nhờ đó mà tinh thần lănh hội cái đặc thù, bằng việc nh́n vượt qua nó hướng về khoảng tuyệt đối của các đối tượng có thể có[25]. Để hiểu một yếu tính phổ quát tự bản chất là vô giới hạn, dù rằng yếu tính phổ quát này được kinh nghiệm trong cái khả giác, th́ đầu tiên lư trí phải lănh hội rằng yếu tính này được giới hạn trong và nhờ cái khả giác này. Nhưng để ư thức về sự giới hạn này, th́ hành vi lănh hội cái khả giác đặc thù này phải siêu vượt nó để hướng về cái ǵ hơn nữa. Cái ǵ hơn nữa này không thể là một đối tượng đặc thù cùng loại, v́ nếu không, lại phải siêu vượt qua nó nữa... Như vậy khi lănh hội một đối tượng đặc thù, ư thức vượt lên trên cái đối tượng đặc thù, và lănh hội nó không chỉ trong cái này (giới hạn và riêng rẽ) mà c̣n trong tính hữu hạn của nó, cũng như trong tương quan của nó với cái toàn thể của những đối tượng có thể có[26].

          Khả năng của lư trí để trừu xuất (abstractio, reditio in seipsum) và siêu vượt (transcendance, tiền dự anticipation) gọi là lư trí tác động ((intellectus agens). Lư trí tác động là khả năng nhận biết đối tượng trực giác qua giác quan như thực tại giới hạn và cụ thể, và như vậy lư trí tác động phổ quát hóa mô thể nơi cái khả giác, và giải phóng mô thể khỏi cái đặc thù vật chất[27]. Lư trí tác động là nền tảng của mọi nguyên tắc, là nền tảng của tri thức[28].

b. Tri thức

          Thể tri không là sự tiếp xúc của lư trí với sự vật[29], không là một hành động (sản phẩm của hành vi lănh hội) nhưng là một hiển thể, nghĩa là một thực tại hiện diện với chính ḿnh[30]. Thể tri là hiện diện với chính ḿnh, là t́nh trạng phản tỉnh trên chính ḿnh của một hữu thể có khả năng được xác định[31].

          Theo thánh Thomas, thể tri[32] là sự trở lại chính ḿnh của tri thể[33] và như vậy, là hiện diện với chính ḿnh[34]. Tri thể (cognoscens) và cái được biết (cognitum) là một trong hiển thể[35]. Lư trí và cái được biết là một[36]. Cái được biết là sự trọn hảo của tri thể[37]. Như vậy cái được biết luôn luôn là hữu thể của tri thể[38].

          Tri thức, một cách tổng quát, là hiện diện với ḿnh của hữu thể, là hữu thể phản tỉnh, là sự trở về trên chính ḿnh (reditio in seipsum). Nhưng đối với con người, tri thức hàm chứa phải hiện diện với thế giới, phải ở nơi tha thể trong giác thể[39].

Thánh Thomas diễn tả điều này trong ST. I, q. 84, a. 7, corp.: “impossibile est intellectum nostrum, secundum praesentis vitae statum, quo passibili corpori conjungitur, aliquid intelligere in actu, nisi convertendo se ad phantasmata”[40].

          Tri thức hệ tại phán đoán. Cái riêng của lư trí là khẳng định hoặc phủ định[41]; và chỉ lư trí mới biết chân hoặc giả, chân lư hoặc sai lầm[42]. Và như ở trên đă thấy, lư trí không thể biết ǵ nếu không nhờ ảnh tượng. Chính quan niệm này giúp xác định môi trường mặc khải.

2. Lời- phương tiện và môi trường mặc khải

          Thiên Chúa tự do, Ngài tự do mặc khải, hoặc tự do không mặc khải. Mặc khải hay không, là hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa[43]. Trên b́nh diện thuần lư trí, trước khi Thiên Chúa mặc khải cho con người, lư trí không biết Thiên Chúa có mặc khải cho con người hay không. Hữu thể tự do luôn là một mầu nhiệm, hữu thể tự do luôn luôn mới, mỗi hành vi hành động của hữu thể tự do đều là những sáng tạo bất ngờ[44].

          Giả như Thiên Chúa mặc khải cho con người, th́ đâu là môi trường, đâu là phương tiện Ngài dùng để mặc khải cho con người?

          V́ Thiên Chúa là hữu thể tự do, nên không thể định trước cho Ngài môi trường, cách thức hay phương tiện. Những điều này, hoàn toàn tùy thuộc Ngài. Nhưng nếu Ngài mặc khải cho con người th́ Ngài chỉ mặc khải những điều con người có thể lănh hội được[45]. Nếu cứ ở điều kiện hiện tại, tức điều kiện cấu thành con người hiện tại[46], người ta có thể dựa vào cơ cấu con người hiện tại để xác định môi trường mặc khải, nếu có và thực sự đă có, của Thiên Chúa cho con người.

a. Mặc khải qua lời

          Lời, theo tiếng Hy lạp, có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là lư trí, nghĩa thứ hai là lời; và từ hai nghĩa chính này, chúng ta thấy có nhiều nghĩa khác[47]. Lời (DABAR), theo tiếng Do thái, có nghĩa là lời nói, sự vật, và cả lư trí nữa[48]. Lời là tên làm cho sự vật có thể hiểu được[49]. Như vậy, lời (Logos, Dabar) là lời nói, là sự vật, là lư trí.

          Lời là thực tại làm cho con người có thể hiểu một thực tại. Như vậy, tất cả những ǵ làm cho con người, làm cho lư trí con người có thể hiểu một thực tại đều được gọi là lời[50].

          Bao lâu con người chưa được hưởng kiến trực tiếp Thiên Chúa, th́ mặc khải được thực hiện qua lời[51], v́ ở điều kiện hiện tại của con người, con người tri thức nhờ các ư niệm, ảnh tượng, các sự vật khả giác. “Lời” ở đây không chỉ là dấu chỉ của sự vật khả giác nhưng c̣n là dấu chỉ của tinh thần[52].

b. Mặc khải như biến cố lịch sử

          Lịch sử là một chuỗi biến cố của một hay nhiều hiện hữu tự do; nếu không có tự do, không có lịch sử. Ở đâu có tự do, th́ ở đó luôn luôn có một chuỗi biến cố mà người ta không có thể tính toán và diễn dịch khởi từ một nguyên tắc tổng quát[53].

          Hiểu lịch sử như vậy, những hiện hữu bất tất tùy thuộc hiện hữu tuyệt đối tự do đều là những dấu chỉ, là lời để con người tri thức, là lời để con người nhận biết hiện hữu tuyệt đối tất yếu. Tương tự thế, những hành vi tự do của một ngôi vị tự do, cho con người biết hơn về ngôi vị ấy; cũng vậy, những hành động của hiện hữu tất yếu mà con người có thể tri thức được, cũng giúp con người có thể biết hơn về hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do.

          Như vậy, lịch sử xét như là lời, giúp con người tri thức về hiện hữu tuyệt đối. Nói cách khác, nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người trong hoàn cảnh điều kiện tại thế, tạo thành lịch sử[54], th́ con người có thể ngang qua lịch sử đó -tức là lời, nhận biết được thực tại mặc khải. Nói như vậy không có nghĩa, tất cả những ǵ Thiên Chúa hành động con người cũng biết; v́ tri thức con người phải qua giác quan và những vật khả giác, nên con người chỉ có thể biết khi Thiên Chúa muốn mặc khải, và Ngài mặc khải qua lời.

          Như vậy, mặc khải hay không, tùy thuộc hoàn toàn nơi Thiên Chúa, v́ Ngài là hiện hữu tuyệt đối tự do; và nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người, th́ lịch sử là nơi Thiên Chúa mặc khải cho con người, và con người phải luôn lắng nghe và để ư tới lịch sử, v́ đây chính là môi trường Thiên Chúa mặc khải cho con người[55].

3. Tự do lắng nghe

          Khởi từ tri thức về vạn sự vạn vật qua giác quan và với khả năng suy luận của lư trí, con người nhận ra hữu thể có một tương quan mật thiết với nhau. Cũng từ tri thức giác quan và với khả năng suy luận, con người nhận ra ḿnh là hiện hữu bất tất, và từ đó nhận biết Hữu Thể Tất Yếu Tự Do.

          Tất cả đều hiện hữu, nhưng các hữu thể hiện hữu theo những mức độ khác nhau. Hữu thể sở hữu hữu thể tùy mức độ tri thức, theo mức độ hữu thể hiện diện với chính ḿnh[56].

          Hữu thể được gọi là vật thể, khi hữu thể này khả tri với hữu thể khác nhưng lại ẩn dấu với chính nó, nó không thể trở lại chính ḿnh. Hữu thể được gọi là giác thể, khi tri thức của hữu thể có đối tượng trước tiên là vật thể[57]. Hữu thể được gọi là tinh thần khi hữu thể có thể trở về chính ḿnh.

a. Tinh thần nhập thể

          Con người không chỉ là giác thể, tức là có tri thức vật thể bằng hành vi hiện hiện nơi tha thể, nhưng con người c̣n là tinh thần, v́ con người có khả năng trở về chính ḿnh (reditio completa in seipsum)[58]. Chính trong thân xác và qua thân xác mà con người là tinh thần. Con người là tinh thần nhập thể[59].

i. Tri thức tự do

          Con người, ngoài tri thức giác quan c̣n có khả năng suy tư trên cái biết giác quan. Chẳng hạn nh́n trái táo rơi, con người có thể suy tư t́m hiểu để khám phá ra định luật chi phối vật thể. Dầu vậy tri thức này cũng chỉ nằm ở b́nh diện sự vật.

          Ngủ mơ thấy ḿnh là bướm, tỉnh dậy không biết có phải ḿnh là bướm đang mơ?! Lúc đó là mơ hay lúc này mới là mơ, bây giờ là mơ hay thực! (Trang Tử).

Tôi sai lầm, vậy tôi hiện hữu (Augustin).

Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu (Descartes).

Cái tuyệt hảo, phải hiện hữu; v́ nếu không hiện hữu th́ không là tuyệt hảo (Anselme).

Tôi là hiện hữu bất tất, vậy phải có hiện hữu tất yếu.

Trên đây là những tri thức, nhưng những tri thức này không c̣n thuộc b́nh diện vật thể. Những tri thức này khởi từ tri thức vật thể giác quan, nhưng đă không dừng lại mà vượt trên b́nh diện vật thể. Với tri thức này, con người trở thành tinh thần, con người đă qua tri thức giác quan để trở về chính ḿnh, con người không dừng lại nơi sự vật, nhưng vươn lên cái siêu vượt. Con người trở thành tinh thần tự do. Con người có thể chỉ dừng lại nơi sự vật, hoặc con người có thể vươn lên hiện hữu tất yếu.

          Người ta thường nghe nói “con người tự do” “ư chí tự do”, nhưng dường như không nghe nói “tri thức tự do”. Người ta thường cho rằng tự do và lư trí không liên hệ với nhau, nhưng thực sự tri thức cũng liên hệ tới tự do v́ lư trí cũng bị ảnh hưởng bởi ư chí tự do. Khi nói tri thức tự do, phải hiểu theo văn mạch này[60].

          Con người là tinh thần, theo K. Rahner, nghĩa là, con người trong cuộc sống luôn hướng về tuyệt đối, luôn khai mở với Thiên Chúa[61]. Con người là tinh thần nhập thể, nghĩa là, con người hiện diện với ḿnh, trở về với ḿnh qua việc quy về ảnh tượng (phantasma). Con người hiện diện với chính ḿnh qua vật thể chứ không lệ thuộc vật thể[62].

          Tự do, đối với K. Rahner, là vượt trên tri thức giác quan, vượt trên cảm tính; đó là tự do của tinh thần. Tự do theo nghĩa này, là một tên gọi khác của tiền dự (anticipation), là khả năng vượt qua tri thức vật thể để hướng về hữu thể tất yếu[63]. Con người không dừng lại nơi vật thể, nhưng luôn vươn lên vượt trên vật thể, đó mới là tinh thần; lúc đó tri thức của con người là tri thức tự do. Nếu tri thức của con người chỉ dừng lại nơi vật thể th́ tri thức đó không tự do, hay nói đúng hơn, con người đó không tự do.

          Con người có thể trở về với ḿnh bằng tri thức phản tỉnh, có thể vươn lên khỏi vật thể để hướng tới siêu việt thể, đó là tinh thần. Con người là tinh thần, nghĩa là có thể dừng lại nơi vật thể hay vươn lên siêu việt thể. Lư trí không chỉ dừng lại nơi sự vật nhưng vươn lên siêu việt thể, đó là lư trí tự do. Bây giờ chúng ta sẽ xét về ư chí nơi con người.

ii. Ưchí tự do

          Ư chí hay ư muốn, là hành vi của hiện hữu mà nếu không có hành vi này, một hữu thể bất tất không thể hiện hữu.

          Ư chí là hành vi tự do của hiện hữu, là hành vi tự do của hữu thể tinh thần. Nếu một hữu thể bất tất có thể hiện hữu nhờ một “hiện hữu[64]”, hàm chứa “hiện hữu này” tự do. Nghĩa là, hiện hữu này là tinh thần, có trở về chính ḿnh, có tri thức phản tỉnh về chính ḿnh, và siêu vượt.

          Đối với hiện hữu tất yếu tuyệt đối[65], hành vi tri thức và hành vi ư muốn là một; c̣n đối với tinh thần nhập thể, tức con người, ư muốn đi theo tri thức[66]. Khi nói ư muốn đi theo tri thức, điều này đúng khi tri thức là tri thức tự do, nghĩa là tinh thần nhập thể vượt lên trên tri giác sự vật để hướng tới hiện hữu tuyệt đối. C̣n đối với tinh thần “không tự do”, tức không hướng tới tuyệt đối, cả lư trí lẫn ư chí đều không tự do, đều dừng lại nơi vật thể.

          Ư muốn là hoạt động của tinh thần, là hành vi của hiện hữu sở hữu tri thức tự do. Ư muốn tự do, theo nghĩa siêu h́nh, là ư muốn đi theo lư trí tự do, tức lư trí vượt qua tri thức vật thể để vươn lên tuyệt đối. Ư muốn không tự do, theo nghĩa siêu h́nh nhưng vẫn là ư muốn tự do hiểu theo nghĩa tự ư, khi tuân theo lư trí không tự do, tức lư trí chỉ dừng lại nơi vật thể, không vượt lên trên tri thức vật thể.

          Một cách b́nh thường, chúng ta vẫn nói ư chí tự do, v́ ư chí là hành vi tự do của tinh thần tự do, thực hiện chính hành vi muốn đó hay không, là tùy nơi hiện hữu tự do này.

          Theo Thánh Thomas, ư chí là tham dục trí tuệ tuân theo sự nhận thức của lư trí. Thánh Thomas chia tham dục làm ba cấp độ: vọng dục, nộ dục, và ư chí[67]. Tham dục tự nhiên là khuynh hướng tuân theo mô thể tự nhiên; tham dục cảm giác là khuynh hướng tuân theo mô thể cảm giác; tham dục trí tuệ (trí dục) là khuynh hướng tuân theo mô thể tri thức[68].

          Theo Aristote, “tham dục là khuynh hướng hoạt động của mọi hữu thể hướng về thiện hảo của ḿnh”. Sở dĩ như vậy, v́ “mọi cái hoạt động đều hoạt động hướng về mục đích”, và mục đích đây là cái thiện hảo[69].

          Theo K. Rahner, thái độ tuyệt đối cần thiết mà hiện hữu bất tất phải có là ư chí[70]. Khởi từ nhận định con người đặt vấn nạn về hữu thể, K. Rahner lư luận: “trong mức độ con người tự vấn về hữu thể, con người khẳng định tính hữu hạn bất tất của ḿnh, và trong mức độ con người phải tra vấn, con người khẳng định cách tất yếu hữu thể bất tất của ḿnh... Điều này hàm chứa, đối với hiện hữu hữu hạn bất tất của ḿnh, con người phải có một thái độ; nói cách khác, con người phải có thái độ cần thiết đối với hiện hữu bất tất của ḿnh... Và thái độ tuyệt đối của hiện hữu bất tất này là ư chí”[71].

          Thiện hảo là điều mọi hiện hữu nghiêng chiều về, thế nhưng mức độ hiện hữu nơi mỗi hữu thể khác nhau[72], nên cái thiện hảo của mỗi hiện hữu nghiêng chiều về cũng ở những mức độ khác nhau. Vật thể tự nhiên nghiêng chiều theo luật tự nhiên, vật thể giác quan nghiêng chiều về cái thiện hảo của nó theo bản năng, và hiện hữu tinh thần nghiêng chiều về thiện hảo được nhận thức bởi lư trí.

          Nơi các hiện hữu không là tinh thần, nghiêng chiều này không thể chống cưỡng được; c̣n với hiện hữu tinh thần, dù đây là nghiêng chiều tất yếu nhưng là tất yếu theo bản tính được lư trí nhận ra, th́ tinh thần vẫn tự do. Nói theo cách vẫn thường được dùng, ư chí tự do. Chẳng hạn nghiêng chiều hướng về hiện hữu tất yếu tuyệt đối, hiện diện nơi mọi hiện hữu bất tất- cụ thể là nơi con người, thế nhưng con người vẫn tự do, con người tự do vươn lên hay ở lại nơi sự vật.

b. Yêu thương- hành vi tự do

          Nói tới con người là phải nói tới t́nh yêu, cũng như nói tới con người là phải nói tới tri thức. T́nh yêu là tư thái căn bản của con người. Vậy t́nh yêu là ǵ?

          Người ta ham mê tiền bạc danh vọng, chứ người ta không yêu tiền bạc danh vọng, yêu là hành vi tương quan giữa người với người, giữa ngôi vị và ngôi vị, chứ không là tương quan giữa người và đồ vật, giữa ngôi vị và vật thể. T́nh yêu là tương quan liên vị.

          T́nh yêu là nghiêng chiều của một ngôi vị về một ngôi vị. T́nh yêu là ư muốn có đối tượng là ngôi vị[73]. Ư chí con người luôn luôn tự do. T́nh yêu là hành vi tự do, nghĩa là con người luôn luôn có thể cưỡng lại được. Nếu “yêu” ai tới mức độ không thể cưỡng lại được, th́ đó không là t́nh yêu mà là thèm muốn đam mê. Khi ấy, người đó không tự do mà đang sống trong t́nh trạng bản năng. Đối tượng của bản năng không là ngôi vị nhưng là vật thể, hoặc giác thể.

          Con người có thể cưỡng lại t́nh yêu; nhưng con người không được phép cưỡng lại t́nh yêu v́ con người là hiện hữu tự do; nếu con người cưỡng lại t́nh yêu, con người không tự do đích thực. Tương quan giữa ngôi vị và ngôi vị, giữa người với người, phải là tương quan t́nh yêu; nếu không là tương quan t́nh yêu, đó không là hành vi của những hiện hữu tự do đích thực. T́nh yêu là hành vi tự do, là ư muốn hướng tới ngôi vị.

Lược tóm

Con người tự do lắng nghe mặc khải

          Con người với lư trí nhận biết sự vật qua giác quan, nhận biết chính ḿnh, và hơn nữa có thể vượt trên sự vật khả giác để nhận biết hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do. Với khả năng siêu vượt, con người là tinh thần nhập thể tự do.

          Con người là tinh thần tự do. Điều này được nhận thấy khi con người biết ḿnh có thể chọn làm điều này hay điều kia. Đành rằng con người có nhiều giới hạn và tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng con người vẫn cảm thấy và biết ḿnh tự do. Con người biết ḿnh có thể làm hay thực hiện một hành vi bất tất[74].

          Thường người ta nói ư muốn tự do chứ không nói lư trí tự do, thế nhưng chính lư trí cũng có thể là lư trí tự do hay không. Ư muốn tùy thuộc lư trí, nhưng chúng ta trong kinh nghiệm cũng thấy có những khi muốn không theo lư trí, lúc này con người vẫn tự do nhưng thực sự nó không tự do đích thực. Con người tự do đích thực khi con người theo những ǵ lư trí thấy là đúng.

          Con người tự do đích thực, sống theo lư trí, không dừng lại ở b́nh diện sự vật nhưng vươn lên, siêu vượt lên khỏi vật chất để hướng tới hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do. Lư trí không tự do khi lư trí chỉ dừng lại nơi sự vật, không vươn khỏi sự vật để hướng tới hiện hữu tuyệt đối, nhưng theo bản năng, theo những ǵ thuộc về vật chất. Lúc này Voluntas non sequitur intellectum, mà intellectus sequitur voluntatem. Và ư muốn lại theo bản năng chứ không theo lư trí. Lư trí theo ư muốn, theo bản năng, theo những ǵ là vật chất, không vươn lên thực tại siêu việt, là lư trí không tự do. Lúc đó con người không c̣n là tinh thần nữa, dù thực sự con người vẫn có khả năng là tinh thần (hiểu theo nghĩa, con người vẫn có thể siêu vượt khỏi cái khả giác). Chỉ khi nào con người với lư trí vượt lên trên cái khả giác, vươn tới hiện hữu tất yếu, con người mới là tinh thần đích thực, lư trí con người mới tự do đích thực.

          Dù có nỗ lực giải thích lư do tại sao “lư trí không tự do” nơi một số người hoặc nơi mỗi người trong một số thời điểm khác nhau trong cuộc đời, th́ yếu tố chính yếu vẫn thấy, luôn nằm trong mọi hành vi “không tự do”, là con người luôn luôn tự do. Con người có tự do thực sự hay không, là do chính mỗi người.

          Thiên Chúa có thể mặc khải cho con người trong lịch sử, và thực sự ngài đă mặc khải[75]. Về phía con người, v́ là tinh thần nhập thể tự do, con người vẫn tự do, tự do lắng nghe và đáp trả.


 

PHẦN II: MẶC KHẢI TRONG KINH THÁNH

          Đau khổ, sự dữ là một sự kiện và là một vấn đề gây nhiều bức xúc cho con người. Con người thường bị dằn vặt với những tra vấn:

con người từ đâu tới? con người đi về đâu?

tại sao con người đau khổ? làm sao để con người hạnh phúc?

Khao khát hạnh phúc- hiện tại và vĩnh cửu, luôn là một vấn đề, luôn là điều làm con người bận tâm.

          Từ ngàn xưa, con người đă khổ công đi t́m hạnh phúc, đi t́m phương thuốc làm con người có thể sống trường sinh bất tử! Bao nhiêu tôn giáo xuất hiện nhằm chỉ cho con người con đường giải thoát khỏi những đau khổ và đạt tới cơi vĩnh phúc...

          Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không hoàn toàn nằm trong tầm tay của con người, nó là một ơn, là sự chia sẻ và thông hiệp giữa Thiên Chúa và con người, là chính sự sống của Thiên Chúa, là t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người và của con người đối với Thiên Chúa.

          Từ thuở xa xưa cho đến nay, con người không đặt nặng “biết” bằng “sống”, và nhất là sống hạnh phúc. Chính đời sống hạnh phúc sẽ chi phối cái nh́n về mặc khải.

A. CỰU ƯỚC
1. Cái chết đến từ con người

          Sách Sáng Thế chương 1-11, nói về tạo dựng và tương quan giữa Thiên Chúa và con người trước khi Abram xuất hiện[76].

a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp

          St. 1-11 cho biết cái nh́n của truyền thống Do Thái về thời kỳ tiền-Abraham.

          Tŕnh thuật St. 1, 1- 2, 4a cho thấy Thiên Chúa tạo dựng tất cả bằng lời (Ngài phán, và vạn sự vạn vật hiện hữu); Ngài tạo dựng con người giống h́nh ảnh Ngài, Ngài ban quyền thống trị muôn loài vạn vật cho con người; Ngài tạo dựng con người như chóp đỉnh của muôn loài vạn sự. Theo truyền thống tư tế (P) của tŕnh thuật này, Thiên Chúa hài ḷng v́ những điều Ngài tạo dựng tốt lành quá đỗi (St. 1, 31). Thiên Chúa tạo dựng và Ngài yêu thương con người.

          Tŕnh thuật St. 2, 4b-25 cũng cho cái nh́n về nguồn gốc con người trong tương quan với Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người không chỉ từ bùn đất, nhưng c̣n bởi chính hơi thở của Ngài (St. 2, 7). Con người được hưởng dùng tất cả mọi hoa trái trên đất, kể cả cây sự sống, chỉ trừ cây biết tốt xấu; con người bá chủ[77] trên vạn vật.

b. Tội- nguyên nhân đau khổ

          Ở lần san định Ngũ kinh vào khoảng năm 400 trước công nguyên, tác giả đă lấy hai truyền thống tư tế P và truyền thống Y[78] về tạo dựng để làm thành phần đầu của quyển sách Kinh Thánh đầu tiên.

          Trong cái nh́n truyền thống Do Thái này, thời đầu con người sống trong t́nh thương yêu của Thiên Chúa; con người sống trong hạnh phúc, sống trong sự ḥa hợp thân mật với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa săn sóc con người (St. 2, 20tt), con người khắn khít với nhau (St. 2, 24) và không bị dằn vặt đau khổ (St. 2, 25). Thuở đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người, không có đau khổ v́ Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt lành.

          Đau khổ chỉ có từ khi con người phạm tội (St. 3, 16-17); và đau khổ tột cùng là cái chết (St. 3, 19). Tương quan tốt lành giữa Thiên Chúa và con người bị găy đổ (St. 3, 23-24. 8) bởi con người đă ăn trái cây bị cấm (St. 3, 11). Vấn đề ở đây không là ăn một trái cây, nhưng là lỗi một mệnh lệnh, và hơn thế nữa, nghi ngờ t́nh yêu Thiên Chúa, tin vào con rắn hơn tin vào Thiên Chúa (St. 3, 4tt).

          Điều đáng lưu ư ở đây, không phải là con người muốn nên một trong những vị thần linh (St. 3, 5), nhưng là con người muốn độc lập với Thiên Chúa[79].

          Từ khi con người phạm tội, con người cảm thấy xấu hổ và đổ lỗi cho nhau (St. 3, 12), con người không c̣n thấy tha nhân và Thiên Chúa mang lại hạnh phúc cho ḿnh nữa (St. 2, 23; 3, 8-9).

          Hạnh phúc đích thực chỉ có khi con người sống trong Thiên Chúa, trong t́nh yêu của Thiên Chúa, sống trong tương quan tốt với Thiên Chúa. Khi con người sống trong tương quan tốt với Thiên Chúa, con người sẽ sống hạnh phúc với nhau.

          Truyền thống Do Thái qua các tác giả san định Ngũ Kinh lần cuối cho thấy vấn đề sống (đau khổ hay hạnh phúc) tùy thuộc siêu h́nh, tùy thuộc quan niệm về nguồn gốc vũ trụ và con người. Cuộc sống (hiện sinh) đặt vấn đề, siêu h́nh (tri thức) giúp hiểu biết vấn đề tận ngọn nguồn, và rồi con người giải quyết bằng chính cuộc sống. Chỉ trong nhăn quan này, mới thấy việc nghiên cứu mặc khải là hữu ích, là liên hệ tới cuộc sống, là giúp con người sống hạnh phúc, giúp con người vươn tới ơn cứu độ.

          Hạnh phúc đă mất khi con người phạm tội. Tương quan tốt lành giữa con người và Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau, đă bị con người phá hủy khi phạm tội; nhưng Thiên Chúa đă nói một lời gây lạc quan hy vọng cho con người (St. 3, 15). Thiên Chúa đi t́m con người ngay khi con người trốn Ngài (St. 3, 9). Thiên Chúa không muốn cắt đứt liên lạc với con người, Ngài vẫn muốn đối thoại với con người; Ngài chủ động nối lại tương quan với con người dù tương quan này đă bị con người phá hủy.

          St. 4-11 cho thấy cái nh́n về tương quan giữa Thiên Chúa và con người cũng như giữa con người với nhau. Ttương quan giữa con người với nhau cũng ảnh hưởng đến tương quan giữa con người và Thiên Chúa.

          Tŕnh thuật St. 4 cho thấy Abel bị Cain giết và Yahweh đă can thiệp (St. 4, 9tt). Phạm tội là chống lại Trời, con người và cả đất nữa. Đau khổ gia tăng, con người không chỉ phải vất vả mới có của ăn (St. 3, 19), nhưng c̣n hơn thế, đất đai không c̣n cho hoa trái nữa (St. 4, 12).

          Tội lỗi càng ngày càng gia tăng (St. 4, 23) đến độ đời sống con người giảm tuổi thọ (St. 6, 3); và hơn nữa “Yahweh đă thấy sự dữ của loài người đă ra nhiều trên đất... và Yahweh đă hối tiếc v́ đă làm ra con người trên đất, và Người đă phải đau phiền trong ḷng Người” (St. 6, 5-6). Lụt hồng thủy là hậu quả của tội (St. 6, 7). Nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu ḷng thương xót, Ngài vẫn muốn cứu độ con người qua Noe (St. 6, 8tt).

          Truyền thống Do Thái ngay trong 11 chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, là Đấng vẫn yêu thương con người ngay cả lúc con người đang nhận lănh h́nh phạt như hậu quả của tội:

khi Adam phạm tội, Thiên Chúa có lời hứa cứu độ (St. 3, 15);

khi Cain giết em, lời hứa Cain không bị giết trả thù (St. 4, 15);

khi loài người quá tội lỗi và bị phạt hồng thủy, Thiên Chúa cứu độ Noe và thiết lập giao ước với ông, và qua ông với cả loài người (St. 9, 8-17).

Thiên Chúa cứu độ con người, để con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa và với nhau.


 

2. Tuyển chọn Abraham

          Trong thời kỳ trước Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ như Đấng tạo dựng vũ trụ vạn vật và Nguồn hạnh phúc. Thiên Chúa là sự sống và là Đấng làm cho muôn vật được sống; ở ngoài Thiên Chúa, độc lập với Thiên Chúa, chỉ là diệt vong.

          C̣n với Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ cho thấy Ngài là Đấng kêu gọi ông, đề nghị ông đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho ông, hứa sẽ cho ông có con nối ḍng[80] và sẽ cho con cháu ông trở thành một dân lớn, làm ông trở thành nguồn chúc phúc và bảo vệ ông.

a. Lời hứa

          Abram là con của Têrakh, quê ở xứ Kanđê. Têrakh đă đưa con cái ḿnh xuống Haran (St. 11, 27. 31).

i. Lời mời gọi

          Thiên Chúa đă phán với Abram[81]: “hăy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi; Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, ai mà nói động đến ngươi, Ta sẽ chúc dữ, mọi thị tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu chúc cho nhau” (St. 12, 1-3).

          Lời hứa này thật quan trọng đối với Abraham, v́ Sara không có con; và không con là một tội lớn đối với năo trạng đông phương: tuyệt tự! Lời Thiên Chúa phán với ông, bảo đảm rằng ông sẽ có con nối ḍng, và ḍng giống từ nơi ông sẽ thành một dân lớn mạnh.

          Thiên Chúa và lời hứa của Ngài đối với Abraham, chi phối trọn đời Abraham. Abraham đă đi theo lời Chúa phán bảo ông (St. 12, 4). Ông trở thành người sống dựa vào lời hứa của Thiên Chúa, nghĩa là ông tựa vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đă hiện ra và phán bảo Abraham: “Ta sẽ ban xứ này cho ḍng giống ngươi” (St. 12, 7).

          Thiên Chúa hứa ban đất cho ḍng giống Abraham! C̣n với Abraham? “Hăy ngước mắt lên và từ chỗ ngươi đứng, hăy nh́n từ phía: Bắc, Nam, Đông, Đoài. V́ toàn xứ ngươi thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và ḍng giống ngươi cho đến vạn đại... Hăy chỗi dậy rảo khắp xứ chiều ngang chiều dọc, v́ Ta sẽ ban đất ấy cho ngươi (St. 13, 14-17). Thiên Chúa đă ban đất vùng này cho Abraham, nhưng cho tới khi Sara chết, Abraham c̣n phải mua đất để chôn vợ (St. 23, 4tt); và khi Abraham chết ông cũng được chôn cất tại chốn này (St. 25,10).

          Lời Chúa hứa với Abraham đang được thực hiện, nghĩa là lời hứa này chưa hoàn toàn thành tựu; v́ thế Thiên Chúa vẫn thường lập lại lời hứa này với Abraham:

“Sau các điều ấy, lời của Yahweh đến với Abraham trong thị kiến mà rằng: Đừng sợ, Abram, Ta là khiên mộc cho ngươi; phần thưởng ngươi sẽ bội hậu. Abram thưa: Lạy Chúa Yahweh, người sẽ ban ǵ cho tôi, trong khi tôi vô hậu ra đi c̣n kẻ thừa tự gia đ́nh tôi lại là Êliêzer, người ở Dama...

Và này lời Yahweh phán với ông rằng: Nó sẽ không thừa kế ngươi đâu, những kẻ sẽ phát xuất từ ḷng dạ ngươi sẽ kế thừa ngươi.

Người đă dẫn ông ra ngoài trời và phán: Hăy nh́n lên trời, và hăy đếm tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng. Đoạn người phán bảo ông: Ḍng giống ngươi sẽ như thế. Và Abram đă tin vào Yahweh và sự ấy Người đă kể cho ông như sự công chính (St. 15, 1-6)”.

          Lời hứa ban phần đất cho Abraham và con cháu ông cũng được lập lại:

“Người đă phán với ông: Ta, Yahweh, Ta đă đem ngươi ra khỏi Ur của dân Kanđê, để ban cho ngươi đất này làm cơ nghiệp” (St. 15, 7).

“Ngày hôm ấy Yahweh đă kết ước với Abraham rằng: cho ḍng giống người, Ta sẽ ban thửa đất này từ sông Ai cập cho đến sông Cả, sông Phơrát...” (St. 15, 18).

          Giao ước là lời thề hứa long trọng có điều kiện kèm theo.

ii. Giao Ước

          Năm Abram[82] được 99 tuổi, Thiên Chúa đă kư kết giao ước với Abram, và đổi tên ông thành Abraham (St. 17, 5), đổi tên Saray thành Sara (St. 17, 15).

          Sáng Thế tŕnh bày giao ước này trong chương 17:

“Khi Abram được 99 tuổi, th́ Yahweh đă hiện ra cho ông và phán với ông: Ta là El-Shadday, hăy bước đi trước mặt Ta và ở cho trọn lành. Ta sẽ ban giao ước giữa Ta và ngươi, Ta sẽ cho ngươi sinh sôi đông lắm, đông lắm.

(Và) Abram phục ḿnh sấp mặt xuống.

Và Thiên Chúa phán bảo ông rằng:

Phần Ta, này giao ước của Ta với ngươi:

ngươi sẽ là cha của hằng hà sa số dân tộc...

Ta sẽ lập giao ước giữa Ta và ngươi, và ḍng giống ngươi sau ngươi qua các thế hệ, làm giao ước vạn đại,

ngơ hầu Ta là Thiên Chúa của ngươi và của ḍng giống ngươi sau ngươi.

Và Ta sẽ ban cho ngươi và ḍng giống ngươi sau ngươi đất ngươi nương ngụ, toàn cơi đất Canaan, làm sở hữu vạn đại, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.

(Và) Thiên Chúa phán với Abram:

C̣n ngươi, ngươi sẽ giữ lấy giao ước của Ta, ngươi và ḍng giống ngươi sau ngươi, qua các thế hệ. Này là giao ước các ngươi sẽ giữ lấy, giữa Ta và các ngươi, và ḍng giống ngươi sau ngươi: mọi nam nhân trong các ngươi đều sẽ chịu cắt b́” (St. 17,10).

b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người

          Tương quan giữa Abraham và Thiên Chúa, cũng chính là tương quan giữa Thiên Chúa và con người.

i. Thân t́nh

          Trong những đoạn St.12 và St.15 cùng St.17, Thiên Chúa là Đấng ban cho Abraham lời hứa và giao ước; c̣n trong St. 18 Thiên Chúa cư xử thật thân t́nh đối với Abraham:

Thiên Chúa đă hiện ra cho Abraham nơi cây sồi Mamrê dưới dạng ba người (St. 18, 1); Thiên Chúa đă chấp nhận để được Abraham hầu hạ phục vụ (St. 18, 3-5); Yahweh đă tỏ cho Abraham biết những điều kín, những điều Người sắp làm (St. 18, 16-21) sau khi đă thăm hỏi tṛ chuyện với Abraham về những chuyện riêng của ông như gia đ́nh vợ con (St., 18, 9-15);

Abraham đă nài nỉ xin Chúa đừng phạt dân Sođôm nếu ở đó chỉ có 10 người công chính.

          Yahweh đối xử với Abraham thật thân thiết (St. 18). Ngài là Đấng bảo vệ Abraham và những quyền lợi của ông. Ngài sẵn sàng nghe lời Abraham cầu xin[83] (St. 20, 7. 17-18).

ii. Đ̣i hỏi tuyệt đối

          Yahweh Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban lời hứa và kư kết giao ước với Abraham, Ngài c̣n là Đấng đ̣i hỏi con người phải tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Chính Thiên Chúa đă phán với Abraham: “nơi Ysaac, ngươi sẽ có ḍng giống đội tên ngươi” (St. 22, 2); nhưng cũng chính Thiên Chúa đă phán cùng ông “Abraham, ngươi hăy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac, mà đi tới đất Moriyah và ở đó, hăy dâng nó làm của lễ thượng tiến trên một quả núi Ta sẽ tỏ cho ngươi” (St. 22, 2).

          Abraham đă làm theo lời Chúa phán cùng ông! “Khi họ đến nơi Thiên Chúa phán cùng ông, th́ Abraham xây tế đàn ở đó, rồi sắp củi, và trói Ysaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con” (St. 22, 9-10). Nhưng thần sứ Gia-vê từ trời phán bảo ông:

“Abraham, Abraham, đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm ǵ đến nó, v́ bây giờ ta biết ngươi là người kính sợ Thiên Chúa: con một ngươi, ngươi đă không từ chối với Ta” (St. 22, 11-12). Và Thiên Chúa lại tái xác nhận lời hứa Ngài đă ban cho ông một cách long trọng, Thiên Chúa đă thề:

“Lần thứ hai thần sứ Yahweh gọi Abraham từ trời và phán: Ta lấy ḿnh Ta, Ta thề, sấm của Yahweh: v́ ngươi đă làm điều ấy, và đă không từ chối (với Ta) con một ngươi, th́ Ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, Ta sẽ làm cho ḍng giống ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát băi biển, và ḍng giống ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy ḍng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi v́ ngươi đă vâng nghe tiếng Ta” (St. 22, 15-18).

c. Trung gian mặc khải

          Mặc khải là hành vi Thiên Chúa cứu độ con người! Ngài tỏ cho con người biết Ngài là ai và con người là ai (St. 1-2), Ngài cũng tỏ cho Abraham và qua Abraham cho tất cả mọi người, biết: Ngài đă tuyển chọn Abrham, Ngài trở thành Đấng ban lời hứa và Đấng bảo vệ Abraham trong suốt đời ông.

          Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Abraham, là Đấng ban lời hứa, là Đấng bảo vệ Abraham. Nhưng nếu Abraham không biết th́ Abraham đă không thể đáp trả lời mời gọi và những đ̣i hỏi của Thiên Chúa, và nếu vậy Abraham đă không được cứu, và như vậy việc Thiên Chúa tuyển chọn Abraham có ích ǵ cho ông? Con người chỉ là người trọn vẹn khi con người hành động một cách tự do, có ư thức. Chính v́ thế Thiên Chúa đă tỏ lộ cho con người biết về Thiên Chúa, về chính con người, và về cả vũ trụ nữa.

i. Thiên Chúa phán

          St. 12, 1 cho biết “Yahweh phán với Abram”. Nhưng bằng cách nào? qua trung gian nào?

          Thiên Chúa th́ vô h́nh; c̣n con người là tinh thần và thân xác; con người thiết yếu biết qua trung gian khả giác. Ở đây không thấy Kinh Thánh đề cập đến bằng cách nào Abram biết được là Chúa phán với ông; nhưng một điều Kinh Thánh khẳng định: “Yahweh phán với Abram”, Abram đă ư thức điều này với tất cả sự chắc chắn, không có một chút xíu nghi ngờ.

ii. Thiên Chúa hiện ra

          St. 12, 7: “Và Yahweh đă hiện ra cho Abram và phán bảo ông...”. Ở đây cũng không thấy Kinh Thánh nói Yahweh đă hiện ra cho Abram như thế nào, dưới h́nh ǵ (x. St. 17, 1).

          St. 18, 1-2: “Yahweh đă hiện ra cho ông nơi cây sồi Mamrê... ông ngước mắt lên, th́ này: có ba người đứng bên ông”. Ở đây Kinh Thánh cho biết: Thiên Chúa đă hiện ra cho Abraham dưới dạng h́nh người. Hai trong ba người Abraham đă thấy, được gọi là thần sứ (St. 19, 1), c̣n Yahweh vẫn đứng lại trước mặt Abraham (St. 18, 22).

          St. 16, 7-13 cho thấy thần sứ của Yahweh đă phán với Hagar, thị tỳ của Sara. Và sau đó Hagar cho là Yahweh đă phán với nàng: “Và nàng gọi danh Yahweh Đấng phán với nàng: “Người là El-Roy[84]” (St. 16, 13). Nơi các bản văn xưa, thần sứ của Yahweh không là tạo vật khác với Thiên Chúa[85].

iii. Lời trong thị kiến, trong mộng

          St. 15, 1: “Sau các điều ấy, lời của Yahweh đến với Abram trong thị kiến mà rằng...”. Kinh Thánh nói “lời đến trong thị kiến”, nhưng không thấy qua trung gian người nói hay nhờ trung gian nào khác.

          St. 20, 3: “Thiên Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm và phán bảo ông...”. Theo ghi chú trong bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: mộng báo ban đêm là một đặc điểm của nguồn văn E (St. 28, 11; 31, 11-14; 37, 5tt; 40, 5tt; 41, 1tt; 46, 2); đó là một cách tả thần hiện được coi là xứng đáng hơn với tính siêu việt của Thiên Chúa.

          Lời hứa Thiên Chúa đă ban cho Abraham, Ngài lập lại với Ysaac: “Đừng xuống Ai cập; hăy ở lại trong xứ, ta sẽ nói cho ngươi. Hăy ngụ lại trong xứ này: Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ chúc lành cho người và Ta sẽ ban cho ngươi, và ḍng giống ngươi tất cả xứ này. Ta sẽ giữ lời Ta thề với Abraham cha ngươi. Ta sẽ cho ḍng giống ngươi nên đông đảo như sao trên trời, Ta sẽ ban cho ḍng giống ngươi tất cả các xứ này. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy ḍng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi chưng Abraham đă vâng nghe Lời Ta và đă giữ trọn đạo với Ta, các luật điều, các thánh chỉ của Ta” (St. 26, 2-5).

          Cũng tại Ghêrar này, “Yahweh đă hiện ra cho ông chính đêm ấy và phán: Ta là Thiên Chúa của Abraham, cha ngươi. Đừng sợ, v́ Ta ở với ngươi! Ta sẽ chúc lành cho ngươi, Ta sẽ cho ḍng giống ngươi nên đông đảo, v́ Abraham tôi tớ của Ta” (St. 26, 24).

          Trong hai lần mặc khải cho Ysaac được trích ở trên , Kinh Thánh nói Thiên Chúa hiện ra phán (St. 26, 2. 24); ở câu 24: Thiên Chúa hiện ra vào ban đêm. Cả trong hai lần hiện ra, Thiên Chúa đều hứa: “Ta sẽ ở với ngươi”. Thiên Chúa ở với ai, người đó sẽ được chúc phúc. Lời chúc phúc ở đây thật cụ thể: ḍng giống đông đảo, và có đất làm phần cơ nghiệp (St. 26, 3. 4).

          Trong hai lần hiện ra, Thiên Chúa đều nhắc tới Abraham; ngoài những tên để chỉ Thiên Chúa như El-Roy, El-Shadday, c̣n thấy xuất hiện một cách để chỉ Thiên Chúa, đó là: Thiên Chúa của Abraham (St. 26, 24).

          Những điều Thiên Chúa đă hứa với Abraham và Ysaac, th́ Ngài cũng lập lại với Yacob. Thiên Chúa đă hiện ra với Yacob trên đường ông tới Haran: “Yacob chiêm bao: th́ này có một thang cấp dựng trên đất, nhưng chóp đỉnh thấu trời. Và này có những thần sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên đó. Và này Yahweh đứng bên chàng. Người phán: Ta là Yahweh, Thiên Chúa của Abraham cha ngươi, Thiên Chúa của Ysaac. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và ḍng giống ngươi. Ḍng giống ngươi sẽ đông như cát bụi bành trướng ra Đông Tây Nam Bắc. Mọi tông tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau. Và này Ta sẽ ở cùng ngươi, Ta sẽ ǵn giữ ngươi khắp nơi ngươi đi, Ta sẽ đem ngươi về lại đất đai này, v́ Ta sẽ không bỏ ngươi, sao cho đến lúc Ta hoàn tất các điều Ta phán với ngươi” (St. 28, 12-15).

“Yacob đă tỉnh giấc và nói: hẳn thật có Yahweh ở chốn này mà tôi không biết” (St. 28, 16).

“Yacob đă khấn với Chúa rằng: Nếu Thiên Chúa ở cùng tôi, và ǵn giữ tôi trên đường tôi đang đi, nếu người cho tôi có bánh ăn, áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi b́nh an vô sự, th́ Yahweh sẽ là Thiên Chúa của tôi và viên đá tôi đă dựng làm thạch trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa. Và trên mọi điều Người ban cho tôi, tôi sẽ trích thập phân dâng Người” (St. 28, 20-22).

          Đọc các tŕnh thuật ghi lại cuộc đời của Yacob, người ta thấy quả thực Thiên Chúa đă dẫn dắt ông, đă đưa ông đi và dẫn ông về. Sau khi Yacob đă có vợ con và tài sản, chính Thiên Chúa đă ra lệnh cho ông trở về: “Yahweh phán bảo Yacob: Hăy trở về đất cha ông ngươi ở, về quê quán của ngươi và Ta sẽ ở cùng ngươi” (St. 31, 3).

          Thiên Chúa cũng đă can thiệp với Laban để ông không đụng chạm ǵ tới Yacob (St. 31, 24. 29). Yacob cũng được Thiên Chúa đổi tên thành Israel, như Thiên Chúa đă đổi tên cho Abram và Sara (St. 32, 29; 35, 10).

          Yahweh Thiên Chúa đă hứa Ngài sẽ ở với ông, và điều này thể hiện qua cuộc đời của ông, qua những may mắn ông gặp trên đời, qua những tài sản ông kiếm được. Điều này chính Yacob cũng đă thấy khi ông đến Bêthel dâng lời tạ ơn Thiên Chúa: “hăy khử bỏ các thần xa lạ khỏi giữa các ngươi, hăy thanh tẩy ḿnh và thay y phục. Rồi ta hăy chổi dậy đi lên Bêthel. Ở đó tôi sẽ làm tế đàn kính Thiên Chúa, Đấng đă nhậm lời tôi trong ngày quân bách, Đấng đă ở với tôi trên đường tôi đi” (St. 35, 2-3).

          Thiên Chúa đă ở với Yacob để giải cứu ông, để độ tŕ ông làm ăn phát đạt. Yahweh đă thành nguồn hạnh phúc của Yacob.

3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử

 

 

HOME    LỜI CHÚA    ĐỨC TIN    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG     IN ENGLISH    VỀ TÁC GI

Dẫn Nhập Thần Học   Mặc Khải   S Sống Nếu Bạn Tin   Thiên Chúa Ba Ngôi   Tôn Giáo Ngoài Kitô   Ân Sủng  Biểu Tượng

Mặc Khải        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

phamthanhliem

[email protected]

 



[1] S. THOMAE in Arist. Librum De Anima Commentarium, n. 21

[2] Một vài từ ngữ được dùng ở đây tương ứng với từ ngữ tiếng nước ngoài:

trí khôn, lư trí:     intellect hay intelligence, intellectus, Vernunft, ...

trí tưởng tượng:   imagination, phantasia, ...

lư nhớ:                  mémoire, memoria, ...

lư trí:                     raison, ratio, Vernunft, ...

trí hiểu: entendement, Der Vernunft.

Điều này không có nghĩa có nhiều lư trí, nhưng nhằm diễn tả những khả năng của lư trí con người.

Để hiểu có khi phải suy luận, nhưng có khi là sự nắm bắt trực giác không qua suy luận; như vậy trí hiểu có thể nằm trong lư trí (trí hiểu như khả năng lư luận của trí khôn) hoặc trí hiểu có thể được dùng để chỉ chính trí khôn.

Lư trí, theo Đào Duy Anh trong Hán Việt Từ Điển in tại Paris 1950, có nghĩa: sức suy nghĩ, đối với sức cảm giác.

[3] chẳng hạn ư niệm “cái bàn” phổ quát có thể ứng dụng với mọi cái bàn cụ thể.

[4] eidos là từ ngữ được Platon dùng để chỉ nguyên mẫu của những vật thể của thế giới khả giác; từ ngữ ư niệm (eidos, idée) ở đây không trùng với nghĩa được Platon dùng.

[5] Tự do, công b́nh, bác ái, được hiểu là quan niệm v́ nó không được trừu xuất từ những vật thể cụ thể trực tiếp nhưng nó được tạo thành do suy luận, do phán đoán. Thực ra chúng cũng có thể được gọi là những ư niệm, nhưng là những ư niệm “cấp cao”.

[6] phán đoán về tri thức, lối sống, cách hành xử của con người.

[7] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 40

trích dẫn S. THOMAE in III De Anima, lect. 12, nn. 781-785

[8] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 49

K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 254:

Nihil sine phantasmata intelligit anima (linh hồn không hiểu ǵ nếu không có ảnh tượng).

Theo từ điển Latin-Pháp của Quicherat:

phantasia, ae, f.: vision, imagination, simulacre

Phantasma, atis, n.: être imaginaire, simulacre

cả hai đều từ tiếng Hylạp.

[9] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 41

[10] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 37 note 5 trích dẫn

S. THOMAE in Boeth. de Trin., q. 6, a. 2, ad 5: “Phantasma est principium nostrae cognitionis ut ex quo incipit intellectus operatio, non sicut transiens sed sicut permanens ut quoddam fundamentum intellectualis operationis, sicut principia demonstrationis oportet manere in omni precessu scientiae.

[11] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 19

[12] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 717. 718. 762

[13] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 791. 794

[14] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 718

[15] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 86-87

[16] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 36

[17] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 132

[18] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 111

[19] S. THOMAE, Contra Gent., IV, 11 trích bởi

K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128

[20] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 129

[21] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128

[22] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, pp. 248. 113

[23] S. THOMAE, S.T., I, q. 84, a.7, ad 3 trích dẫn bởi

K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14

[24] S. THOMAE in Boeth. De Trinit., q. 6, a. 2, corp.

trích bởi K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14

[25] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 248

Ở chỗ khác, Rahner nói:

Tiền dự là sự khai mở của ư thức chúng ta về chân trời, mà trong chân trời đó đối tượng đặc thù của tri thức nhân linh được lănh hội (op. cit., p. 114).

Tiền dự là điều kiện để có ư niệm phổ quát, để có trừu xuất; Và đến lượt ḿnh, trừu xuất là điều kiện để có khách thể hóa dữ kiện khả giác, và như vậy cũng là điều kiện để có tri thức (op. cit., p. 113).

Tiền dự như vậy không là sự hiểu biết tiên thiên về một đối tượng, nhưng là chân trời được ban cùng với yếu tính con người, và như vậy, nó là điều kiện tiên thiên của tri thức về một hiện tượng hậu thiên (op. cit., p. 249).

[26] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 112. 113. 115

[27] S. THOMAS, ST. I, q. 79, a. 3, corp: “Oportebat igitur ponere aliquam virtutem ex parte intellectus, quae faceret intelligentia in actu, per abstractionem specierum a conditionibus materialibus. Et haec est necessitas ponendi intellectum agentem Cf. ST. I, q. 84, a. 4, ad 3

K. RAHNER, L'Esprit dans le monde p. 150

K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 111. 113

[28] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 205

S. THOMAE, De Anime, a. 5, corp;

In IV Met., lect.6, n.599

[29] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 80

K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 85

trích dẫn S. THOMAE, Contra Gent., II, 98

[30] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:

Connaitre n’est pas une actio (production d’un acte d’appréhension) mais un actus, c’est-à-dire une réalité qui est-auprès-d’elle-même”

(De Verit., q. 8, a. 6, corp. và S.T., I, q. 18, a. 3, ad 1)

[31] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:

“Connaitre, c’est être-auprès-de-soi, c’est l’état de réflexion sur lui-même d’un être doué d’une puissance d’être déterminée”.

[32] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 87

Từ ngữ “thể tri” ở đây được dùng để dịch chữ Erkennen tiếng Đức của K. Rahner. Nếu đọc bản dịch tiếng Pháp, dịch giả bản tiếng Pháp lại dùng từ “Connaissance”.

Một vài từ ngữ được dùng ở đây:

tri thức:                               connaissance, connaitre

thể tri:                   connaitre, erkennen

tri thể:                   connaissant, sujet qui connait, cognoscens

cái được biết, thụ tri thể:                  cognitum, intellectum

khả tri thể:            cognoscibile, intelligibile (tĩnh từ dùng như danh từ).

[33] étant connaissant. Chủ tri: sujet qui connait.

[34] reditio subjecti in seipsum. Bei-sich-sein.

[35] Cognoscens in actu et cognitum in actu sunt idem.

Cf. F-J. THONNARD, Précis d’histoire..., p. 108

[36] S.THOMAE, ST. I, q. 87, a.1, ad 3: “Idem est intellectus et quod intelligitur”, trích bởi K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 81

[37] S. THOMAE, Contr. Gent. II, 98: “Intellectum est perfectio intelligentis”;

II, 99: “Intellectus in actu perfectio est intellectum in actu”

trích bởi K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p.81. 85-86

[38] K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p. 82

               Op. cit., p. 80:

“Intelligibile enim et intellectum oportet proportiona esse et unius generis (d’une seule origine), cum intellectus et intelligibile in actu sint unum” (Car autrement l’unité effective de l'être et du connaitre dans la connaissance en acte ne pourrait être rendue intelligible dans sa possibilité).

               Khả tri thể và lư trí phải tương xứng và cùng một loại; lư trí và thụ tri thể là một trong hiển thể. “Idem intellectus et intellectum et intelligere” (p. 80).

               “Ens est intelligibile et intelligens, in quantum est ens actu”

trong In II Met., livre I, n. 280

được trích bởi K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 86

               Tính khả tri là khả năng hiện diện với ḿnh, v́ thế tính khả tri có nhiều mức độ khác nhau (la cognoscibilité est pouvoir-être-auqrès-de-soi...) (Esprit dans le monde, p. 84).

               Mức độ chủ thể tính cho thấy một hiện thể sở hữu hữu thể ở mức độ nào (RAHNER, L'Esprit...,p. 83: le degré de cette “subjectivité” indiquent inversement quelle mesure de puissance d'être possède un étant).

               Tri thể và thụ tri thể đều là hữu thể. Khả tri tính tương ứng với chủ thể tính. Tri thể và thụ tri thể là một trong hiển thể, bởi v́ cả hai là hữu thể, và bởi v́ cả hai đều là hữu thể trở về chính ḿnh của hiện thể.

[39] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139. 91-92

[40] “Lư trí chúng ta trong t́nh trạng hiện tại, t́nh trạng liên kết với thân xác, không thể biết ǵ (ở hiển thể) nếu không trở về với ảnh tượng”.

               C̣n với với tác phẩm của Aristote được thánh Thomas chú giải:

ARISTOTE, De Anima, Lib. III, lect. XII, c. VII: “... propter quod numquam sine phantasmate intelligit anima” (Lư trí (linh hồn) không biết ǵ nếu không nhờ ảnh tượng)

trong S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., nn. 772. 791. 854

[41] S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., n. 767:

Intellectus proprium est facere affirmationem vel negationem.

[42] Op. cit., p. 793:

Intellectus solius est cognoscere verum et falsum.

[43] Ở đây chúng ta không đứng trên quan điểm Kinh Thánh; nhưng ngay cả với Kinh Thánh, ư định cứu độ của Ngài cũng không đồng nhất với sự thánh thiện và tốt lành của Ngài. Nói một cách nôm na: Thiên Chúa tốt lành và thánh thiện, nhưng không phải v́ vậy mà Ngài buộc phải cứu độ con người.

Cf. K. RAHNER, art. “Salvation”

trong SACRAMENTUM MUNDI, V, HERDER and HERDER 1970, p. 406

[44] Chẳng hạn để diễn tả t́nh yêu giữa hai người với nhau, họ có thể dùng nhiều cách khác nhau, và không buộc phải theo một công thức cố định nào!

[45] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 201:

Dieu peut révéler uniquement ce que l’homme peut entendre... Mais ladite proposition devient fausse si l’on la modifie en disant...

[46] nghĩa là nếu Thiên Chúa không muốn thay đổi cơ cấu con người.

[47] M. A. BAILLY, Abrégé du Dictionnaire Grec-Français, PARIS 1961, từ ngữ Logos

[48] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum, LIPSIAE 1905, từ ngữ DABAR

[49] J. L. McKENZIE, Dictionary of the Bible, MILWAUKEE 1965, art. “Word”:

“The dynamic reality of the Word is accompanied by its dianoetic reality (O. Procksch). Hb uses “word” where we use “thing” or “deed”. The word as name gives the thing intelligibility; but the thing does not acquire full reality until it gets a name and becomes intelligible. In conferring the name the person exercises his dynamism by which he makes the thing real; in knowing the name the person exercises his dynamism in the reverse direction and “apprehends” the word-thing”. (page 938).

[50] Như vậy, giả như Thiên Chúa mặc khải trong giấc mộng, th́ những ảnh tượng (phantasma) hiện diện nơi lư trí trong giấc mơ vẫn có thể được coi như lời.

Hiểu theo nghĩa rộng hơn, lư trí chính là lời. Nếu Thiên Chúa mặc khải ǵ cho con người, th́ mặc khải cho con người qua lư trí. (Câu khẳng định này là thừa, nhưng nó giúp hiểu rơ khẳng định: Thiên Chúa mặc khải cho con người qua lư trí).

Theo K.Rahner, lời thích hợp để hiểu thực tại siêu thế giới, v́ lời có khả năng phủ định. Lời có thể phủ định những ǵ được xác định nơi thực tại trần thế để vươn lên thực tại siêu việt.

(Cf. K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 270)

[51] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 200-201

[52] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 266

[53] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 203

               Theo M.A. BAILLY, op. cit., từ ngữ HISTORIA:

Lịch sử là điều con người t́m hiểu và khám phá rồi kể lại. Như vậy, nếu con người chỉ nh́n biến cố như những ǵ t́nh cờ chứ không do một lư trí hay một hành vi của hiện hữu tự do (cố ư) thực hiện, th́ biến cố đó đâu có ư nghĩa ǵ.

               Với người Do Thái, biến cố lụt hồng thủy có nghĩa v́ nó được nh́n như hành động của hiện hữu tự do là Thiên Chúa.

Trong Linh Thao số 102. 111, thánh Ynhă gọi là lịch sử những ǵ đức tin cho biết về những quyết định của Thiên Chúa.

[54] v́ là hành động của hiện hữu tự do.

[55] Lịch sử dân Do thái thực sự đă là lời để dân Do Thái nhận biết Thiên Chúa và ư định của Ngài trên dân. Các tiên tri là những người đă đọc được các lời này một cách rơ nét và đă loan báo lại cho dân.

               Những biến cố lịch sử nhân loại, do con người là những hữu thể tự do thực hiện, đă trở thành lịch sử mang tính thần linh, là lời thần linh giúp con người nhận biết Thiên Chúa.

[56] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 220. 88. 94. 97. 99

[57] K.RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 220-221

S. THOMAE AQ., In Arist. Libr. De Anima commentarium, n. 377: “Cognitio autem omnis fit per hoc, quod coggnitum est aliquo modo in cognoscente, scilicet secundum similitudinem”: tri thức là có cái ǵ tương tự cái được biết nơi chủ tri.

[58] K. RAHNER., op. cit., pp. 104-105. 225

khả năng phản tỉnh, biết ḿnh và siêu vượt.

[59] K. RAHNER, op. cit., p. 208

K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139

[60] Về lư trí tự do, đức Phật và S.Freud đă nói về trường hợp lư trí bị hủ hóa bởi tư lợi. Xem thêm: LNC., Dẫn Nhập Thần học, ĐL. 38, trg. 25

[61] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 124-125. 79

[62] K. RAHNER, L' Esprit Dan Le Monde, p. 291 trích dẫn

De Verit., q. 10, a. 8, ad 4:

“Non tamen materiae subditur, ut materialis reddatur”.

De Verit., q. 19, a. l corp.:

“Hoc lumen (intellectuale) non est corpori obligatum”

[63] K. RAHNER, op. cit., pp. 286. 290. 191

[64] hiện hữu này có thể là hiện hữu bất tất đối với hiện hữu tất yếu tuyệt đối.

[65] Thiên Chúa

[66] ư chí đi theo lư trí (voluntas sequitur intellectum).

[67] ST. THOMAE AQUINATIS in Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI 1959, n. 288:

“Quod quidem dividitur in tria: scilicet desiderium, quod est secundum vim concupiscibilem; et iram, quae est secudum vim irascibilem: qui duo appetitus pertinent ad partem sensitivam: sequuntur enim apprehensionem sensus. Tertium autem est voluntas, quod est appetitus intellectivus, consequens scilicet apprehensionem intellectus” (Lib. II, lect. V, c. III).

[68] Op.cit.,n. 286:

Appetitus naturalis est inclinatio sequens formam naturalem; Appetitus sensibilis est inclinatio quaedam quae sequitur ad formam sensibilem; Appetitus intelligibilis est inclinatio quae sequitur ad formam intelligibilem.

[69] F-J. THONNARD, Précis d’histoire ..., p. 116

[70] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 156

[71] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 155-156

[72] người ta đă lấy khả năng tri thức làm chuẩn đánh giá mức độ hữu thể này.

[73] K. RAHNER, L' Homme à L'écoute Du Verbe, p. 176: 'L'amour est la volonté lumineuse qui veut la personne dans son unicité irréductible'.

[74] Chẳng hạn con người thấy ḿnh có thể ăn hay không ăn, ăn lúc này hay lúc khác, và thậm chí có thể tuyệt thực quyên sinh để bảo vệ hoặc cảnh cáo hay phản đối điều ǵ đó.

[75] Thiên Chúa đă mặc khải, điều này được nhận biết khi tra vấn lịch sử. Điều này sẽ được làm trong phần mặc khải theo Kinh Thánh.

[76] Sáng Thế được san định lần cuối vào khoảng năm 400 trước công nguyên; nhưng con người đă xuất hiện trên trái đất khoảng hơn một triệu năm rồi, c̣n Abraham mới chỉ cách chúng ta đây chưa đầy bốn ngàn năm (Abraham xuất hiện khoảng 1850 năm trước công nguyên).

[77] Con người được đặt tên cho muôn vật (St. 2,19-20).

[78] Truyền thống của miền nam, tức Yuđa.

[79] Thiên Chúa đă cho con người sự sống của Ngài (St. 2, 7. 9. 16).

[80] v́ Sara son sẻ không con (St.11, 30)

[81] Abram là tên của Abraham trước khi Thiên Chúa đổi tên cho ông (St. 17, 5).

[82] Dựa theo Sáng Thế chương 16, 16: “Abram sống được 86 tuổi, khi Hagar sinh ra Ismael cho Abram”. Và dựa vào St. 16, 3: “Măn 10 năm Abram lập cư ở đất Canaan, Saray, vợ của Abram đă đem Hagar, thị tỳ của bà, mà dâng nàng làm thiếp cho Abram chồng bà. Ông đă ăn ở với Hagar, và nàng đă có thai. Năm 99 tuổi, Abram đă cắt b́ để thực thi điều kiện giao ước của Yahweh, và Ismael đă 13 tuổi (St.17, 24.25). Như vậy, dựa vào sách Sáng Thế, Abram đến định cư ở Canaan khi ông được khoảng 76 tuổi.

[83] Thiên Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm (St. 20, 3). Trước đó, Thiên Chúa hiện ra với Hagar, nữ tỳ của Sara, để mách bảo những điều Hagar phải làm (St. 16,7-13). Thiên Chúa phán gọi Hagar khi Sara đuổi Hagar ra khỏi nhà (St. 21, 17-19).

[84] El-Roy có nghĩa là Thiên Chúa của thị kiến.

[85] Xem chú thích trong bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn, nxb. D̉NG CHÚA CỨU THẾ - SG. 1976, chú thích St. 16, 7.