HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
MỤC LỤC:
3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử
Yahweh
Thiên Chúa đă hiện ra cho Môsê nơi bụi gai bốc cháy
nhưng không tàn, và Người phán: “khi ngươi dẫn
dân ra khỏi Ai cập... các ngươi sẽ thờ Thiên
Chúa trên núi này” (Xh. 3, 12). Biến cố Xuất Hành đi liền
với giao ước trên núi Sinai, biến cố xuất
hành hướng về giao ước tại Sinai. Ở
đây t́m hiểu khía cạnh mặc khải trong biến cố
xuất hành- giao ước này.
Trong
tŕnh thuật ơn gọi Môsê ở Xh. 3, Thiên Chúa tự giới
thiệu Ngài là “Thiên Chúa của Cha ngươi, Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Ysaac, Thiên Chúa của Yacob” (Xh. 3, 6).
Thiên
Chúa là Đấng thương cảm dân Người: “Ta thấy
rơ nổi khổ của dân Ta bên Ai cập, và Ta đă nghe tiếng
than chúng kêu lên trước mặt đốc công, quả Ta
đă biết các khổ đau của chúng” (Xh. 3, 7)[1].
Và Thiên Chúa quyết định: “Nên Ta xuống giựt chúng
thoát tay Ai cập và dẫn chúng ra khỏi xứ ấy, lên
xứ vừa đẹp vừa rộng, lên xứ chan ḥa sữa
mật. Vậy bây giờ ngươi hăy đi. Ta sai
ngươi đến với Pharaô; ngươi hăy đem
dân của Ta, con cái
Thiên
Chúa giải phóng con dân
Yahweh
phán với Môsê ở Madian: Đi đi! Hăy trở về Ai
cập[4]...
Môsê
đă cho dân biết cuộc gặp gỡ của ông với
Thiên Chúa và những điều Ngài nói với ông về
tương lai dân Ngài, nhưng không phải tất cả
đều tin và nghe (Xh. 4, 31; 5, 21; 6, 9. 12).
Thái
độ của Pharaô đối với việc con dân
Thiên Chúa biết Pharaô không để
dân đi[5]
(Xh. 3, 19-20; 4, 21b; Xh. 5, 2; 6, 1; 7, 13). Môsê cũng đoán
được điều này: “Này con cái
Các
dấu lạ gây thiệt hại tài sản dân Ai cập, là
do tại sự cứng ḷng của vua Pharaô; kể cả
cái chết các con đầu ḷng của người Ai cập
cũng là do tội của Pharaô và toàn dân Ai cập không chịu
vâng phục ư Chúa, không “để dân Ngài ra đi thờ
phượng Ngài”. Mạng sống con người là tuyệt
đối đối với con người, con người
không được phép xúc phạm mạng sống của
ḿnh và của anh em ḿnh; nhưng mệnh lệnh của Thiên
Chúa là tuyệt đối đối với mọi sự:
ai bất tuân th́ phải chết[6].
Và không phải chỉ các con đầu ḷng phải chết,
mà những ai cứng ḷng muốn bất tuân lệnh Chúa, sẽ
phải chết do chính lỗi của ḿnh, khi đuổi
theo dân
Trong
biến cố xuất hành khỏi Ai cập, Yahweh Thiên Chúa
là Đấng quyết định giải phóng dân Ngài khỏi
ách nô lệ Ai Cập; chính Ngài đă tuyển chọn Môsê
làm người dẫn dân Ngài ra khỏi Ai cập, và cũng
chính Ngài đưa ra lư lẽ để nói với Pharaô:
“Yahweh, Thiên Chúa của dân Hipri đă cho chúng tôi gặp
Người. Vậy bây giờ, xin cho chúng tôi đi ba ngày
đàng vào sa mạc tế lễ cho Yahweh Thiên Chúa của
chúng tôi” (Xh. 3, 18). Thiên Chúa Yahweh là lá cờ giương cao của
dân
Thiên
Chúa đă giải phóng con dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập
bằng nhiều điềm thiêng dấu lạ, thế
nhưng con dân Israel vẫn chưa tin tưởng phó thác
tương lai và cuộc sống trong tay Yahweh Thiên Chúa. Họ
vẫn nói những lời tỏ vẻ vô ơn và bất cần
Thiên Chúa: “Phải chi chúng tôi chết đi bởi tay Yahweh
trong đất Ai cập, khi c̣n ngồi bên niêu thịt và
được ăn bánh thỏa thuê. Thật các ông đă
đem chúng tôi ra sa mạc này để làm cả lũ chết
đói ở đây” (Xh. 16, 28).
Những
ǵ Yahweh truyền dạy dân qua Môsê, con dân
Dầu
tất cả những điều ấy, Yahweh Thiên Chúa vẫn
muôn ngàn đời thành tín, Ngài trung thành với chính Ngài, với
điều Ngài đă hứa dù khi con người phản bội
Ngài. Ngài vẫn kư kết với dân một giao ước,
theo điều Ngài đă hứa với Abraham, với Ysaac
và với Yacob: “Ta sẽ lấy các ngươi làm một
dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các
ngươi sẽ biết Ta là Yahweh, Thiên Chúa của các
ngươi, Đấng đem các ngươi ra từ
dưới ách khổ dịch của Ai cập” (Xh. 6, 7).
Giao
ước là một lời hứa có điều kiện
kèm theo lời thề! Lời hứa có thể đến từ
một bên, tức đơn phương; thế nhưng
giao ước luôn luôn phải được sự ưng
thuận của cả đôi bên, tức song phương.
Trước khi có chữ viết, giao ước là sự
đồng ư của hai bên được tuyên bố bằng
lời trước mặt những nhân chứng, với lời
thề và lời nguyền rủa theo nghi thức tế tự.
Sau này khi có chữ viết, bản văn thay thế người
chứng.
Người thề hứa phải
trung thành với những ǵ ḿnh giao ước, không phải
v́ người chứng nhưng v́ thần linh, họ sợ
thần linh và sợ năng lực lời họ đă thề
theo công thức nguyền rủa[7].
Tŕnh
thuật trong sách Xuất hành, chương 19-24 cho thấy
giao ước giữa Thiên Chúa và con dân
· Giới thiệu ngày
tháng nơi kư kết giao ước (Xh. 19,1-2);
· Cuộc đàm phán trao
đổi giữa dân và Thiên Chúa qua Môsê (Xh. 19, 3-15)
về nội
dung giao ước (điều kiện bảo đảm)
(Xh. 19, 3-8)
về việc chuẩn bị và thời
gian kư kết (Xh. 19, 9-15).
· Kư kết giao ước
(Xh. 19, 16-24, 8).
Toàn dân nghinh đón
Thiên Chúa và Thiên Chúa hiện diện (Xh. 19, 16tt);
Điều kiện
giao ước: thập giới (Xh. 20, 1-21. 22tt).
Toàn dân ưng thuận
(Xh. 24, 3).
Kư kết: “Này là
máu của giao ước đă kư kết với các
ngươi, thể theo mọi lời ấy” (Xh. 24, 8.4-8).
Đây
là bảo đảm của Thiên Chúa đối với con
dân Israel, trong giao ước Người kư kết với
dân: “Vậy, bây giờ, nếu các ngươi quyết nghe
tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, th́ các
ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân
hết thảy, v́ toàn cơi đất đều là của
Ta. C̣n các ngươi, các ngươi sẽ là một
vương quốc tư tế cho Ta, một dân thánh” (Xh.
19, 5-6).
Theo
một số học giả, giao ước là nguyên lư thống
nhất quy tụ dân Israel xét như là một dân; v́ vào thời
quan án và quân chủ tiên khởi của Israel, có nhiều nhóm
dân với những nguồn gốc khác nhau đă không chia sẻ
kinh nghiệm xuất hành; v́ thế, họ tháp nhập vào
dân Israel qua việc chấp nhận giao ước với
Yahweh của Israel. Truyền thống về những hành vi
cứu độ dân
Thập
giới là điều khoản của giao ước Sinai
giữa Yahweh và toàn dân
Với
biến cố xuất hành khỏi Ai Cập và giao ước
trên núi Sinai, Thiên Chúa mặc khải Ngài yêu thương và
tuyển chọn dân Israel giữa các dân:
· Ngài đă can thiệp
vào ḍng lịch sử, Ngài điều khiển ḍng lịch
sử: Ngài đă giải phóng dân
· Ngài là Đấng bảo
trợ dân, kư giao ước với dân
· Thiên Chúa là Đấng
ban luật cho Israel; Luật Yahweh Thiên Chúa ban cho dân, nếu
dân tuân giữ, sẽ là bảo đảm dân là sở hữu
của Thiên Chúa; và hơn như vậy nữa, luật
Yahweh ban cho dân Israel trong giao ước, sẽ giúp dân trở
nên giống Thiên Chúa là Đấng Thánh, làm cho dân trở
thành dân thánh của Thiên Chúa.
Thiên
Chúa đă mặc khải tên Ngài cho Môsê, và việc mặc khải
này là khởi đầu cho việc mặc khải Ngài là
Đấng tuyển chọn và giải phóng dân
Thiên
Chúa đă nói với dân qua Môsê, và qua trung gian Môsê Thiên Chúa cũng
nói với Pharaô và triều đ́nh Ai cập (Xh. 19,19, 21-25;
20, 18-21). C̣n với chính Môsê, Thiên Chúa đă nói với ông qua
trung gian bụi gai gốc cháy nhưng không tàn (Xh. 3). Sau
đó, Môsê sống rất thân mật với Thiên Chúa và
thường được Thiên Chúa phán bảo ông,
nhưng Kinh Thánh không cho biết Thiên Chúa phán bảo với
ông qua trung gian nào.
Qua
tŕnh thuật Xh. 33, 18-23; 34, 6-7, con người và ngay cả
Môsê, không thể nh́n thấy Yahweh Thiên Chúa được; cũng
trong lần tỏ hiện này, Yahweh Thiên Chúa mặc khải
Ngài là “Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và
đầy nhân nghĩa, tín thành. Ngài giữ nghĩa cho đến
ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm quá phạm,
nhưng không coi tội như thể vô can. Ngài trị tội
cha trên con cháu ba bốn đời” (Xh. 34, 6-7). Thiên Chúa Yahweh
là Thiên Chúa t́nh yêu, kiên nhẫn và tha thứ.
Thời
kỳ thẩm phán kéo dài khoảng trên 200 năm, từ sau
khi Yosua đưa dân vào đất hứa cho tới thời
Israel có vua (khoảng từ 1210 đến 1000 trước
công nguyên). Những thẩm phán được sách thẩm
phán đề cập tới, là những vị được
Thiên Chúa ở với họ cách đặc biệt (Tp. 3,
10); họ là cứu tinh của dân tộc (Tp. 3, 9.15) chứ
không phải là những người được đặt
để theo thói thường (Xh. 18, 13-26).
Sách
thẩm phán tŕnh bày tương quan giữa Thiên Chúa và
Sách
thẩm phán cho cái nh́n rất đa dạng về ơn gọi
thẩm phán.
Với
những thẩm phán Otniel (Tp. 3, 7-11), Êhud (Tp.3, 12-30) và Shamgar
(Tp. 3, 31), sách không cho biết quá tŕnh h́nh thành ơn gọi
làm thẩm phán; với Baraq, Thiên Chúa đă nói với ông qua
tiên tri Đêbôrah (Tp. 4, 1-10); c̣n với Ghêđêô, thần sứ
Yahweh đă hiện ra cho ông (Tp. 6, 11-12) và Yahweh đă trao sứ
mạng cho ông (Tp. 6, 16tt); với Samson, ơn gọi đă
h́nh thành từ lúc được thụ thai, ông là người
được hiến thánh cho Thiên Chúa từ trong dạ mẹ
“chính trẻ ấy sẽ khởi công cứu thoát Israel khỏi
tay Philitin” (Tp. 13, 5).
Sau
thời thẩm phán, là thời kỳ vương quyền.
Có thể nói vị thẩm phán cuối cùng là Samuel (1Sm. 7,
2-17); Samuel c̣n được coi là tiên tri, v́ Yahweh Thiên Chúa
đă nói với ông, và nói với dân qua ông (1Sm. 3, 1-21); Samuel
cũng là người đă xức dầu phong vương
cho Saul (1Sm.10, 1tt) và cho David (1Sm.16).
Tŕnh
thuật 1Sm.3 cho thấy Yahweh Thiên Chúa gọi Samuel, nhưng
lúc đó ông không nhận ra tiếng Chúa. Theo tŕnh thuật
này, Samuel nghe tiếng nhưng không thấy ǵ, chính v́ vậy
cậu mới chạy lại chỗ thầy Êli, v́ tưởng
thầy gọi. Trong tŕnh thuật này, tưởng có thể
nghĩ rằng Chúa gọi Samuel lúc cậu c̣n thức. Nghe
thấy tiếng Chúa, đó là điều thường thấy
nơi các tiên tri: “Chúa phán...”, “lời Chúa đến với...”.
Vào
thời trước và sau Samuel, người
Để
thấy rơ hơn việc thỉnh ư Yahweh bằng gieo quẻ
bốc thăm, hăy xem tŕnh thuật sau: “Saul nói: Lạy
Yahweh, Thiên Chúa của
Những
dân tộc đông phương lân cận của dân
Nhiều
lần dân Israel phản bội Thiên Chúa, không tuân giữ giao
ước, thờ các thần khác ngoài Yahweh; nhưng Yahweh
Thiên Chúa vẫn đáp cứu dân mỗi khi dân quay trở về
với Thiên Chúa. Những tŕnh thuật này cho thấy Thiên
Chúa là Đấng thành tín, kiên nhẫn và tha thứ; c̣n
Không
phải chỉ có dân
Tiên
tri, người biết trước; nhưng đúng
hơn, tiên tri là người nói nhân danh Thiên Chúa (ngôn sứ).
Tiên
tri là người của Thiên Chúa, người được
Thiên Chúa chiếm đoạt, người có kinh nghiệm về
Thiên Chúa đến độ các vị suy nghĩ, nói và hành
động như Thiên Chúa muốn, như thể các vị
đó thấy hay nghe được Thiên Chúa nói (Yer. 20, 7.9;
Am. 3, 3-8). Tuy nhiên cũng có người cho rằng các ngài là
những người bị bệnh “sùi bọt mép” (Mik. 2,
6; Am. 7, 16), những người điên (Hos.9, 7), những
người thiếu sự khôn ngoan tối thiểu (không
biết nói dối dù phải chết (Yer. 26, 12); không sợ
thế lực người đời dù thế lực
đó là quan quyền hay vua chúa (2V.1, 5tt; 18, 1tt; 21, 20tt)).
Nói
tới tiên tri, không thể không đề cập đến
lời, sấm ngôn.
Lời,
tiếng Dothái là DABAR. DABAR có hai gốc song song: một có nghĩa
là nói, và một có nghĩa là cái ở đàng sau; như vậy,
DABAR vừa có nghĩa làm cho hiểu biết, vừa có nghĩa
cái ǵ mang sức mạnh.
DABAR
là cái ǵ ở đàng sau, và cũng là cái ǵ được
phóng đẩy ra trước; là cái chuyển-thành-hành-vi
điều đầu tiên ở trong trái tim, trong ḷng. DABAR
là cái nền tảng của một sự vật, là cái nghĩa
riêng của sự vật; và nghĩa này được diễn
tả bằng ngôn từ. Như vậy, mỗi lời chứa
đựng không chỉ ư nghĩa mà c̣n chứa đựng
một năng lực nữa. Theo Kinh Thánh, DABAR là cái ra khỏi
môi miệng (Ds. 30, 13; Yer. 17,16) và là cái có nguồn gốc
trong ḷng con người (
Lời
là diễn tả “thân xác” của nội dung “linh hồn”;
đằng sau lời, có một hồn. Nếu một
người có tâm hồn cương nghị phát biểu lời,
th́ lời đó sẽ diễn tả nhiều thực tại
hơn lời của một người có tâm hồn yếu
nhược. Một người nói với một người
khác, là tạo một cái ǵ thuộc tâm hồn họ nơi
tâm hồn của người khác nghe họ[12].
Trong
ngôn ngữ hiện tại, Karl Buehler cho thấy:
· Lời có một nội
dung; nó diễn tả hay tiêu biểu cho một vật nào
đó; nó đặt tên cho một vật, diễn tả một
tư tưởng, một phán đoán, kể lại một
câu chuyện.
· Lời c̣n là một lời
mời gọi; lời được ngỏ với ai, th́
có khuynh hướng gợi lên nơi người đó một
lời đáp hay phản ứng.
· Lời mặc khải,
bày tỏ một ngôi vị, bày tỏ tâm t́nh bên trong của
người nói, bày tỏ lập trường của họ.
Như vậy, ba khía cạnh này của
lời tương hợp với ba ngôi của một
động từ: lời diễn tả ngôi thứ nhất,
lời kêu gọi ngôi thứ hai, và lời tường thuật
ngôi thứ ba.
Tóm
lại, người ta có thể định nghĩa: lời
là một hành vi bởi đó một ngôi vị ngỏ lời
và diễn tả ḿnh với một người khác, nhằm
truyền thông và thông cảm lẫn nhau[13].
Ở
Ai cập và Lưỡng Hà Địa, lời là một thực
thể quyền uy. Lời thần linh, chính là sức lực
của thần linh mà con người không thể chống
cưỡng lại được. Lời của con
người cũng có năng lực, đặc biệt
trong những lời chúc lành hoặc chúc dữ, trong lời
hứa, lời thề! Lời của vua chúa có năng lực
hơn lời của người thường.
Trong
Cựu Ước, t́m thấy nhiều đoạn văn
cho thấy năng lực của lời:
· Ysaac chúc lành cho Yacob. Sự
lầm lẫn không làm cho lời đă nói mất giá trị,
Ysaac không thể rút lời đă chúc phúc cho Yacob (
· Bà mẹ của Mikayohu
phải chúc phúc để hóa giải lời nguyền rủa
bà đă thốt ra hướng về người ăn cắp,
mà bà không biết người ăn cắp lại là chính
con bà (Tp. 17, 1tt).
· Lời nói của David
hướng về một người bất kỳ nào
đó được áp dụng cho chính ông (2 Sm. 12, 1-8).
· Lời thề đi
kèm theo h́nh phạt, nếu một người thề gian,
lời thề độc sẽ ứng nghiệm trên
người thề gian đó (Ds. 5, 12-31).
Năng
lực của lời bắt nguồn từ năng lực
của chính ngôi vị nói. Ư muốn của ngôi vị nói
được chuyển tới thế giới bên ngoài cùng
với tất cả năng lực và tính chất của lời
được nói ra!
Lời
của Yahweh là nhân tố tác tạo trong suốt lịch sử
dân
Lời
của Yahweh là một từ ngữ rất thông dụng
trong các sách tiên tri. Lời là đặc sủng của tiên
tri, cũng như Luật (Torah) là đặc sủng của
tư tế, và lời khuyên (khôn ngoan) là đặc sủng
của hiền nhân (Yer. 18, 18). Lời Yahweh không do tiên tri
nhưng do tự Thiên Chúa Yahweh, chính Ngài bắt tiên tri phải
nói (Am. 3, 8).
Lời
của Yahweh đối với tiên tri, khi th́ ngọt ngào
(Yer. 15, 16), khi th́ như ngọn lửa đốt trong
xương tủy (Yer. 20, 7-9), khi th́ trở nên lời giận
giữ phải nói ra (Yer. 6, 11). Lời của Yahweh là chính
Yahweh. Lời Yahweh mà tiên tri nói có sức lật đổ
và phá hủy... (Yer. 1, 9-10). Lời của Yahweh không thể
không thành tựu (Ys. 45, 23; 55, 10-11; 31, 2); hơn nữa, Lời
của Yahweh là lời vĩnh cửu và ứng nghiệm
(Ys. 40, 8; Cf. Ys.9, 8).
Lời
của tiên tri đặt nền tảng trên mặc khải
qua biến cố, và mặc khải qua biến cố dẫn
tới lời. Lời của Thiên Chúa được ban
cho con người như một sứ mạng, như một
lời giáo huấn, như một người hướng
dẫn. Lời của Thiên Chúa là chủ lịch sử, kiến
tạo lịch sử, và vang vọng trong lịch sử[14].
Phác họa một lịch sử về Lời Thiên Chúa, là
đồng thời phác họa lịch sử mặc khải[15].
iii.
Lời- phương tiện mặc khải
Tất
cả các tiên tri đều có cảm thức đặc biệt
về Lời Chúa. Nhiều tiên tri diễn tả
tương quan với Thiên Chúa bằng thị kiến; các
ngài được Thiên Chúa nói với “trong thị kiến
và trong giấc mơ” (Ds. 12, 6tt; 1V. 22, 13-17; Am. 1, 1; Ez. 1, 1;
Nah. 1, 1; Hab. 1, 1). Một số khác cho rằng ḿnh được
Thiên Chúa nói với, c̣n bằng cách nào th́ không đề cập
tới. Có những vị diễn tả việc ḿnh có Lời
Chúa bằng những h́nh ảnh biểu trưng, chẳng hạn
với tiên tri Yêrêmya, Thiên Chúa đặt Lời Ngài vào miệng
tiên tri (Yer. 1, 9); c̣n với Ezekiel, tiên tri đă ăn sách viết
Lời của Yahweh, sách vừa đắng vừa ngọt
đối với ông (Ez. 2, 9- 3, 3).
b. Tiêu chuẩn nhận biết tiên tri thật
Xét
về phương diện chủ quan, tiên tri thật là
người xác tín ơn gọi tiên tri của ḿnh, ơn gọi
hiển nhiên đến mức độ không thể nghi ngờ
được, họ cảm thấy bị bó buộc phải
nói và hành động nhân danh Thiên Chúa; sự bó buộc này
thường chống lại khả năng và khuynh hướng
b́nh thường của họ, nó đ̣i buộc như bị
bắt buộc phải nói hoặc làm. C̣n nơi tiên tri giả,
họ cho những điều họ mơ tưởng và
mong ước là mặc khải, và họ cho ư họ là ư
Thiên Chúa (Yer.23, 23tt).
Xét
về phương diện khách quan, những điều
tiên tri thật nói phải ứng nghiệm (Đnl. 18, 21),
và có sự tương hợp giữa lời giảng dạy
và cuộc sống của vị tiên tri (như vâng phục
Thiên Chúa, từ bỏ ḿnh và những ǵ làm thoải mái cho
ḿnh).
Chính
v́ lấy ư ḿnh làm ư Chúa, cho nên tiên tri giả thường có
câu trả lời liền; c̣n tiên tri thật, đôi khi và
thường, phải chờ câu trả lời từ Thiên
Chúa (Yer. 27-28).
Tiên
tri luôn luôn và chính yếu là người của thời
hiện tại đoù, tức là cho những người
đương thời với các tiên tri, chứ không phải
là người cho thời quá khứ hoặc tương lai[16].
Tiên tri, người nói nhân danh Thiên Chúa cho dân, về những
điều Thiên Chúa muốn nói với dân.
Là
người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chiếm
đoạt, tiên tri có cái nh́n của Thiên Chúa. Tiên tri nói cho
dân biết tương quan giữa Thiên Chúa và dân,
tương quan giữa Thiên Chúa và vua, giữa Thiên Chúa và
tư tế v.v.
Tiên
tri thấy rơ chứ không mù quáng. Ngay khi bên ngoài tất cả
dường như rất trật tự và tốt đẹp,
tiên tri vẫn phân biệt được, nhận định
và thấy sự trống vắng đức tin và t́nh yêu
đằng sau những cái bên ngoài có vẻ tốt đẹp.
Tiên tri nhận ra sự bất hạnh nơi những cái
có vẻ hạnh phúc bên ngoài mà các tiên tri giả nơi triều
đ́nh loan báo. Tiên tri cũng là người loan báo sự an
ủi, và an ủi dân trong những cơn cùng quẫn, khi bị
lưu đày và những khi như thể tuyệt vọng[17].
Tiên
tri nỗ lực duy tŕ và củng cố chân lư giao ước,
chống lại mọi cám dỗ trao đổi giao ước
của Thiên Chúa lấy giao ước chính trị[18].
Tiên tri lưu ư và cảnh cáo vua và các tư tế, để
họ đừng bất trung với giao ước, và
đừng an tâm với những yên ổn giả tạo.
Các tiên tri giải thích các tai ương và các thử thách,
không cho rằng chúng do những nguyên nhân bên ngoài t́nh cờ;
nhưng chúng là h́nh phạt Thiên Chúa trừng trị tội
lỗi của dân; những biến cố đó là những
biến cố mặc khải.
Có
thể nói, các tiên tri là những người nh́n lịch sử
dân
Nói
vậy không có nghĩa là không biết các tiên tri thế kỷ
thứ VIII như Amos, Hôsêa, Ysaya và Mica, đă không nhắc
đến chữ giao ước. Tuy các vị đó không nhắc
đến chữ giao ước, nhưng các vị đă
khai triển nền thần học giao ước: tính
ưu việt của Yahweh, hành vi cứu độ của
Yahweh, chỗ đứng duy nhất của Israel xét như
dân Thiên Chúa và những đ̣i buộc đối với
Yahweh.
Một
số học giả cho rằng, các tiên tri thế kỷ
VIII tránh dùng chữ giao ước, v́ người thời
đó dễ hiểu lầm rằng giao ước đ̣i
Yahweh phải làm tất cả những ǵ dân Israel thích[19].
C̣n Mendenhall lại cho rằng, các tiên tri thế kỷ VIII
không nhắc đến chữ giao ước v́ trong
vương quốc Yuda, giao ước với Israel đă
được thay thế bởi giao ước với nhà
David; mà các tiên tri không muốn đồng hóa giao ước
của Yahweh với Israel, với giao ước của
Yahweh với David; tiên tri sợ rằng nếu các ngài dùng chữ
giao ước, dễ dẫn tới hiểu lầm rằng
sự tồn tại của dân lệ thuộc vào sự tồn
tại của vương triều David[20].
Với
tiên tri Yêrêmya, chữ giao ước xuất hiện lại.
Yêrêmya c̣n nói tới một giao ước mới, và coi
tương lai của
Cùng
thời với Yêrêmya, sách Đệ Nhị Luật nhấn
mạnh nhiều đến giao ước: người ta
được chúc lành hay chúc dữ là tùy người ta có
giữ luật hay không.
Trong
truyền thống P nơi Ngũ Kinh, giao ước
được đồng hóa với luật; trước
đó, truyền thống P đă tŕnh bày giao ước
dưới dấu hiệu cắt b́ (
Các
tiên tri nhớ lại thời Xuất Hành, và coi đó là lư
tưởng của xă hội hiện tại. Tiên tri muốn
xây dựng một xă hội xứng với phẩm giá con
dân Thiên Chúa: các quyền của con người phải
được tôn trọng (1V. 21), tất cả đều
b́nh đẳng và sống trong t́nh huynh đệ. Ḷng nhiệt
thành với công b́nh là một biểu lộ của ḷng tin
vào Thiên Chúa; chính Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và xây dựng
xă hội này (Ys. 11, 6-9; 19, 23-25; Zac. 8)[21].
Các
tiên tri cảnh cáo mọi tầng lớp dân chúng (vua, tư
tế, dân chúng), để họ trở về với
Yahweh, đừng vi phạm giao ước của Yahweh với
Êlia
tố cáo Akhab đă là nguyên nhân của nạn hạn hán.
“Akhab nói với Êlia: phải chăng chính là ngươi, con
người giá họa cho
Không phải dân đă bỏ hoàn
toàn Yahweh để đi theo Baal, nhưng dân đă baal hóa
Yahweh, coi Yahweh như đồng hội đồng thuyền
với Baal, đến độ họ đă đặt nữ
thần Anat, vợ của Baal bên cạnh Yahweh[22].
Êlia đă nói thẳng với họ: Nếu Yahweh là Thiên
Chúa, hăy theo Ngài, c̣n như nếu là Baal, th́ các ngươi
hăy theo nó đi” (1V. 18, 21).
Tiên
tri Yêrêmya cũng tố cáo dân đă bỏ Yahweh để
đi theo các thần ngoại: “Há có dân nào tráo đổi thần
linh- mà nào chúng đâu phải thần linh, nhưng dân Ta
đă tráo đổi vinh quang của ḿnh với đồ
vô dụng[23].
Trời ơi, hăy rụng rời trước sự này, hăy
rởn tóc, rất mực kinh hoàng- sấm của Yahweh, v́
dân Ta đă làm hai điều bất hảo: chúng đă bỏ
Ta mạch nước hằng sống, để đào cho
ḿnh bể nước, nhưng các bể ṛ không chứa
được nước” (Yer. 2, 11-13).
Tội
thờ quấy, được tiên tri Hôsêa ví như tội
ngoại t́nh, và tiên tri Mikê coi như hành vi làm điếm tế
thần ngoại lai (Mik. 1, 4-7; Am.3, 14tt; 4, 4; 5, 4.21; Ys. 1,
10.21tt; Hos. 4, 15tt; 8, 5tt; 9, 15; 11). Bất công cũng
được các tiên tri phản đối mạnh (Mik.
2,1tt; 2, 8; 6, 11tt; 3, 1- 4, 9; Am. 4, 1tt; 5, 11; 8, 4tt; Ys.10, 1tt; Hos.
4, 1tt; 7, 1-7; 6, 7).
Thiên
Chúa đă mặc khải qua biến cố xuất hành và
giao ước Sinai, Ngài là Thiên Chúa quyền năng, là Đấng
can thiệp vào ḍng lịch sử, Đấng giải phóng
dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, Đấng bảo
trợ dân, là Thiên Chúa của dân Israel, Đấng làm dân
Israel thành dân tư tế của Thiên Chúa, Đấng kư kết
giao ước với dân Israel, Đấng biến dân Israel
thành sở hữu của Ngài.
Thiên
Chúa, trong thời đại các thẩm phán, các vua và các tiên
tri, tỏ cho thấy Ngài là Thiên Chúa trung thành với giao
ước. Dù dân không giữ giao ước, dù dân phản bội
bất trung, th́ Thiên Chúa vẫn trung thành; Ngài không bỏ giao
ước dù dân đă không tuân giữ. Hơn nữa, Ngài là
người bảo vệ giao ước, giúp dân tuân giữ
giao ước; Ngài đă dùng những phương tiện
khác nhau để giúp dân trung thành với giao ước,
trung thành với Ngài, chẳng hạn như cơ cấu
vương quyền, cơ cấu tư tế và các tiên
tri; và nếu dân vẫn cứng ḷng, Ngài cho những tai hoạ
đến để cảnh cáo dân, nhất là bằng biến
cố lưu đày. Khi những cơ cấu vương
quyền và tư tế, làm dân bê trễ không giữ giao
ước, th́ Ngài băi bỏ những cơ cấu đó, thậm
chí cả ḥm bia, đền thờ.
Thiên
Chúa được thấy trong giai đoạn này, là Đấng
yêu thương dân
“Mẹ nào lại quên con đẻ
của ḿnh? cạn ḷng thương đối với con dạ
nó không? cho dù chúng quên được nữa, th́ phần Ta,
Ta sẽ không hề quên
ngươi (Ys. 49, 15)”.
“Làm sao Ta nỡ bỏ
ngươi hỡi Ephraim, hay thí hẳn ngươi đi, hỡi
Thiên Chúa là Thiên Chúa siêu việt,
Ngài không suy nghĩ và hành động như người
phàm, Ngài không cư xử với Ta như Ta đáng tội:
“Như trời cao hơn đất thế nào, th́ tư
tưởng Ta cũng vượt quá tư tưởng các
ngươi” (Ys. 55, 9), “V́ Ta là Chúa, chứ không phải
người phàm” (Hos. 11, 9).
ii.
Tương quan giữa con người và Thiên Chúa
Israel
được gọi được chọn, được
yêu thương cưng chiều, là để thành bí tích cho
mọi dân mọi nước, nhằm giúp con người
nhận biết Yahweh là Thiên Chúa, là Đấng yêu
thương tất cả mọi người.
Con
người chỉ là tạo vật; đối với
Thiên Chúa, con người như đất sét với người
thợ gốm (Ys. 45, 9tt). Con người, là tạo vật
được Yahweh Thiên Chúa yêu thương rất mực,
đặc biệt con người đây lại là dân
Tương
quan giữa con người và Thiên Chúa cũng là tương
quan giữa dân
· Tương quan “cha
con”! Đây không phải là tương quan tự nhiên theo nghĩa
b́nh thường.
· Tương quan “chồng
vợ”! Tương quan này nhấn mạnh tính nhưng không
khởi đầu của Yahweh, v́ trong Cựu Ước,
chồng thường chọn vợ. Tương quan giữa
Yahweh và
· Tương quan “chủ
chiên đàn cừu”. Tương quan này cho thấy Yahweh là
người bảo vệ. Đàn cừu tín thác vào người
chăn, đi theo người chăn và sẽ được
no thỏa! Tiên tri Ezekiel dùng h́nh ảnh này.
· Tương quan “họ
hàng”. Yahweh được gọi là người báo thù,
người chuộc (Gôel) của
· Tương quan “vua
tôi”. Tương quan này hàm chứa trong quan niệm Thiên Chúa
cai trị dân Ngài, trong kiểu gọi Yahweh là Chúa (Adonai,
Kurios) trong giao ước[24].
Theo truyền thống chấp nhận
Một
nét đặc trưng của mặc khải thời các
tiên tri, cho thấy mặc khải chưa hoàn tất.
Mọi
tầng lớp dân đều ngóng chờ một vị
thiên sai. Vị này có thể là một tiên tri lớn như
Môsê (Đnl. 18, 18), hoặc một vị vua công chính mà trong
nước của Ngài sẽ có b́nh an hạnh phúc (Ys. 7; 9;
11), hoặc một mục tử (tư tế) luôn đi
t́m con chiên bị lạc, băng bó con chiên bị
thương, dẫn đàn chiên đến đồng cỏ
xanh tươi, đến suối nước trong lành (Ez.
34), hoặc là người tôi tớ Yahweh chịu khổ nạn
để công chính hóa nhiều người, để chuộc
tội cho dân (Ys. 42, 1-9; 49, 1-6; 50, 4-9; 52, 13- 53, 12), hoặc
con người từ trời xuống (Dn. 7).
Yêrêmya
cũng loan báo một giao ước mới: “Sẽ tới
ngày Ta sẽ lập một giao ước mới với
nhà
Cũng
vào thời lưu đày, tiên tri Ezekiel đề cập
đến thần khí mới, thần khí mà Thiên Chúa ban cho,
sẽ làm con người được sống. “Ta sẽ
ban Thần Khí của Ta xuống trên các ngươi. Và các
ngươi sẽ được sống” (Ez. 37, 14.5-6). “Ta
sẽ ban cho các ngươi một tấm ḷng mới. Bên
trong các ngươi, ta sẽ ban một thần khí mới,
Ta sẽ cất tấm ḷng đá khỏi thịt ḿnh các
ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm
ḷng thịt. Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần
Khí của Ta. Và các ngươi sẽ giữ các phán quyết
của Ta, và sẽ thi hành. Các ngươi sẽ lập
cư trên đất Ta đă ban cho cha ông các ngươi. Các
ngươi sẽ là dân của Ta. C̣n Ta, ta sẽ là Thiên Chúa
của các ngươi” (Ez. 36, 26-28).
Như
luật, tiên tri, là hiện tượng chung của cả vùng
lân cận của Dothái, văn chương khôn ngoan và hiền
nhân cũng vậy[26].
Văn chương khôn ngoan xuất hiện vào thiên niên kỷ
thứ hai nơi những dân tộc lân cận của
Dothái; c̣n với dân tộc Do Thái, văn chương khôn
ngoan chỉ thịnh hành sau thời lưu đày và là
phương tiện mặc khải[27].
a. Khôn ngoan- nguồn hạnh phúc
Khôn
ngoan đem lại cho con người trường sinh bất
tử, và cho con người t́m thấy niềm vui. “Nhờ
khôn ngoan, tôi được trường sinh bất tử,
để lại cho hậu thế lưu niệm muôn đời
không phai... v́ với khôn ngoan, không có ǵ là cay đắng khó
chịu, chung sống với khôn ngoan, không có đau phiền,
trái lại chỉ có hoan lạc mừng vui” (Kng. 8, 13.16).
Khổ
đau, cực nhọc, là do con người bỏ
đường khôn ngoan. “Bởi đâu, hỡi Israel, bởi
đâu hỡi Israel, bởi đâu mà ngươi lại ở
trên đất kẻ thù, già đi trên đất xa lạ?
là v́ ngươi bỏ mạch khôn ngoan” (Bar. 3, 10.12).
Khôn
ngoan được nhân cách hóa như một người
đi rao giảng ở ngă ba đường hoặc
nơi phố chợ (Cn. 1, 20tt; 8-9), và ai nghe khôn ngoan sẽ
được chúc phúc, ai t́m khôn ngoan sẽ được
sự sống (Cn. 8, 34.35a), v́ khôn ngoan sẽ hướng dẫn
họ trong mọi hành vi, và ǵn giữ họ (Kng. 9, 11).
Người
ta có thể học biết khôn ngoan[28].
Đầu
mối của khôn ngoan (Hc. 1, 14), gốc rễ của khôn
ngoan (Hc.1, 20), khôn ngoan viên măn (Hc.1, 16), là kính sợ Chúa.
Để
được khôn ngoan, phải kính sợ Chúa, và phải sống
như người con thảo (Tb. 4, 3-4; Cn. 6, 20; 23, 20; 28,
24;19, 26; 20, 20), như người chồng tốt (Cn. 5,
1-23; 6, 20-7, 27; 23, 27-28), như người cha tốt (Cn. 29,
13-21), như một công dân tốt (Cn. 25, 8-10; 24, 21-22). Phải
biết vâng theo lẽ phải (Cn. 25, 6-7), phải biết
nghe lời giáo huấn (Cn. 1, 8-9; 3, 1; 4,1 3.20; 5, 1; 12, 1; 13,
1v.v.) phải biết nhận sự sửa phạt (Cn. 13,
24; 22, 15; 23, 13.14), phải có tư cách đúng đắn
(Cn. 23, 29-35), phải sống công b́nh (Cn. 16, 8-11; 23, 10.11; 22,
23.28).
Con
người có thể trở nên khôn ngoan, có thể trở
thành hiền nhân; nhưng con người không làm chủ khôn
ngoan; con người không sở hữu khôn ngoan như một
vật tự nhiên.
Khôn
ngoan không phát sinh do con người, nhưng từ Thiên Chúa.
“Khôn ngoan nhất nhất đều do tự Chúa, và từ
đời đời hằng ở với Người”(Hc.
1, 1).
“Ta
(khôn ngoan) đă xuất tự miệng Đấng tối
cao, như áng mây Ta đă bao trùm trái đất” (Hc. 24, 3).
“Yahweh đă dựng nên Ta, tiên thường của công tŕnh
Người. “Từ trước mọi thời, ngay lúc khởi
nguyên, Người đă dựng nên Ta, và cho đến
đời đời, Danh Ta sẽ không phai (Hc. 24, 9). Từ
đời đời, Ta đă được tấn phong,
ngay từ đầu, trước khi đất khai sinh”
(Cn. 8, 22-23).
Khôn
ngoan có những phẩm tính của Thiên Chúa: là phản ánh của
ánh sáng, là hào quang phát tự vinh quang Thiên Chúa, là Thần Khí
thông minh thánh thiện. “Khôn ngoan là phản ánh sự sáng hằng
có, là gương không t́ ố rọi lại hoạt động
của Thiên Chúa, là h́nh ảnh của Thiên Chúa toàn thiện”
(Kng. 7, 26); “Khôn ngoan là khí thiêng xuất từ quyền phép
Thiên Chúa, là hào quang tinh ṛng tự vinh quang Đấng toàn
năng phát hiện, v́ thế không ǵ nhơ uế lọt
vào được trong” (Kng. 7, 25). “Có trong khôn ngoan, Thần
Khí thông minh thánh thiện, đơn độc, đa phức,
tinh tế, linh động, tinh ṛng, vô t́ tích, trong suốt, bất
khả xâm phạm.” (Kng. 7, 22). V́ vậy, con người phải
nài xin Thiên Chúa ban khôn ngoan của Ngài cho con người (Cn.
2, 6; Hc.1, 8-10; Kng. 9, 4; Job. 28, 12-27).
Luật
qua tư tế, lời qua tiên tri, khôn ngoan qua hiền nhân,
đều có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Tất cả
là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, giúp con người
nhận ra t́nh yêu củaThiên Chúa, giúp con người sống
tốt để trở nên con Thiên Chúa. Các tác giả sách
thánh vào thời văn chương khôn ngoan, đă dung ḥa
được thao thức t́m kiếm khôn ngoan của
người thời đại, với truyền thống
lề luật và lời Thiên Chúa. Sách Huấn Ca đă đồng
nhất ba thực tại trên với nhau: “Nguồn mạch
khôn ngoan chính là lời Thiên Chúa trên cao, và
đường lối của khôn ngoan là lịnh truyền hằng có” (Hc. 1, 5). Sự khôn
ngoan đích thực đối với người Do Thái,
và sự khôn ngoan này vượt trên các khôn ngoan của những
dân tộc lân cận, là kính sợ Thiên Chúa và giữ lệnh
truyền (lề luật, lời) của Ngài. Chính điều
này làm cho họ trở thành người khôn ngoan thực sự,
và được trường sinh bất tử. Luật
Thiên Chúa ban trên núi Sinai vẫn là điều cốt cán với
người Do Thái.
Luật,
tiên tri và khôn ngoan, là những thực tại xuất hiện
không chỉ riêng với người Do Thái, nhưng cũng
chung cho các dân tộc vùng cận đông. Điểm đặc
biệt của người Do Thái, là nhận ra luật
Torah như hồng ân Thiên Chúa ban cho những người
Ngài thương yêu tuyển chọn; tiếp đến với
đặc sủng tiên tri, dân Do Thái xác tín rằng Lời
Thiên Chúa được ban cho con người, để dẫn
dắt con người đi trên đường công chính;
và bây giờ với văn chương khôn ngoan đang thịnh
hành ở phương đông, người Do Thái nhận ra
rằng khôn ngoan là hồng ân Thiên Chúa trao ban cho con người.
Trước
khi bước sang t́m hiểu mặc khải trong Tân Ước,
tóm lại sơ qua cái nh́n của Cựu Ước xét
như mặc khải của Thiên Chúa cho con người:
Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ
vạn vật và con người;
đau khổ và sự chết là
hậu quả của tội chống lại Thiên Chúa; hạnh
phúc đích thực của con người tùy thuộc
tương giao của con người đối với
Thiên Chúa;
Thiên Chúa đă yêu thương và
tuyển chọn Abraham: chính Ngài đă kêu gọi và lập
giao ước với Abraham, trở thành Thiên Chúa của
Abraham, Ysaac, Yacob;
Thiên Chúa đă giải phóng dân
Thiên Chúa đă lập giao ước
với dân Israel trên núi Sinai, đă ban lề luật cho dân,
đă làm dân Israel thành dân riêng của Ngài, đă cho dân Israel
thành dân tư tế, trở thành dân trung gian giữa Thiên
Chúa và các dân khác, đă làm dân Israel thành dân qua đó các dân tộc
khác được chúc phúc;
Thiên Chúa muôn đời thành tín.
Cho dù dân Israel có phản bội, th́ Ngài vẫn là Thiên Chúa
trung thành; Ngài ban các thẩm phán để cứu dân, Ngài ban
các tiên tri để giúp dân trở lại với Ngài, để
dân tuân giữ giao ước của Ngài với dân;
Con người và dân Israel luôn luôn
phản bội, nhưng qua đó Thiên Chúa cho thấy Ngài là
Thiên Chúa giàu ḷng thương xót và nhân từ, Ngài luôn tha thứ
cho con người;
Thiên Chúa là Đấng ban khôn ngoan
đích thực cho con người; sự khôn ngoan đích thực
không chỉ nằm trên b́nh diện tri thức ngọn nguồn
sự vật, nhưng chủ yếu hệ tại cuộc
sống; sự khôn ngoan đích thực là kính sợ Thiên
Chúa và tuân giữ lề luật giao ước.
Tất
cả Tân Ước đều xây nền trên biến cố
tử nạn phục sinh của Đức Yêsu Nazareth.
Đức tin của mọi kitô hữu cũng đặt
nền tảng trên biến cố tử nạn phục
sinh của đức Yêsu.
Chính
nhờ biến cố tử nạn phục sinh, mà các tông
đồ nhận ra đức Yêsu là Con Thiên Chúa theo bản
tính. Các tông đồ là những chứng nhân về biến
cố tử nạn phục sinh của đức Yêsu; các
ngài đă đi rao giảng tin mừng Đức Yêsu Phục
Sinh: đức Yêsu đă phục sinh từ cơi chết, Ngài
là Kitô và là Chúa.
Các
tông đồ đă thấy đức Yêsu Phục Sinh. Các
ngài đă làm chứng về những điều tai nghe mắt
thấy “đức Yêsu Phục Sinh”. Các kitô hữu đă
tin vào Đức Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng, qua
lời chứng của các tông đồ. Đức tin của
các tông đồ và của các kitô hữu là một, thời
xưa cũng như thời nay.
Bốn
Tin Mừng mang tên các tông đồ, là đức tin của
các tông đồ, và cũng là đức tin của cộng
đoàn kitô hữu tiên khởi. Các tín hữu tin vào đức
Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng của các tông đồ.
Họ tụ họp nhau để nghe các tông đồ kể
về đức Yêsu, về cuộc đời và những
điều Ngài giảng dạy. Một số tín hữu có
học thức ghi lại những ǵ các tông đồ rao giảng
hoặc kể về Đức Yêsu. Khi phần lớn các
tông đồ chết[29],
các tín hữu tiên khởi sợ rằng những điều
các tông đồ rao giảng và làm chứng bị mai một
theo thời gian, nên một số người đă thâu
lượm những lời kể của các tông đồ
về Đức Yêsu, cũng như những lời giáo huấn
của đức Yêsu mà các tông đồ đă thuật lại,
và san định thành sách. Đó là lịch sử h́nh thành
các tin mừng, phản ánh đức tin của các kitô hữu
sơ khai cũng như đức tin của các tông đồ.
a. Đức Yêsu Nazareth phục sinh
Biến
cố tử nạn phục sinh của Đức Yêsu
Nazareth đều được bốn tin mừng ghi lại
qua tŕnh thuật thương khó, mồ trống và những
lần hiện ra.
Đức
Yêsu đă bị bắt vào ban đêm tại vườn dầu
(Mc. 14, 32-52; Mt. 26, 36-56; Lc. 22, 40-53; Ga. 18, 1-11). Ngài được
dẫn tới dinh Hanna, là nhạc phụ của thượng
tế Caipha (Ga. 18, 13); sau đó Ngài được điệu
tới dinh thượng tế Caipha (Ga. 18, 24) và bị kết
án tử ở ṭa Công Nghị Do Thái (Mc. 14, 53-65; Mt. 26, 57-68;
Lc. 22, 54tt). Sáng đến, Ngài được điệu
đến dinh tổng trấn Philatô (Ga. 18, 28; Mc.15, 1; Lc.
22, 66; Mt. 27, 1-2); sau đó Ngài được chuyển đến
ṭa của Hêrôđê (Lc. 23, 8-12); rồi Ngài lại được
chuyển về cho Philatô (Ga. 18, 38tt; Mc. 15, 6-15; Mt. 27, 15-26;
Lc. 23, 13-25). Ngài bị kết án tử ở ṭa án Roma bằng
sự ưng thuận của Philatô, v́ ṭa công nghị Do Thái
không có quyền kết án tử h́nh.
Ở
trước ṭa công nghị người Do Thái, Đức
Yêsu bị kết án tử h́nh v́ tội phạm thượng
(Mc. 14, 62-64 và //); nhưng ở trước ṭa án Roma, Đức
Yêsu bị cáo với tội phản loạn xưng vua (Ga.
18, 12 và //) và bị kết án tử với tội danh này.
Đức Yêsu vác thập giá (Ga. 19, 17-24; Mc. 15, 21-32; Mt. 27,
32-44), bị đóng đinh thập giá. Ngài đă chết
trên thập giá và được mai táng bởi Yuse Arimathia
(Mc. 15, 42tt và //).
ii.
Mồ trống và những lần hiện ra
Đức
Yêsu đă chết và được mai táng vào ngày thứ
sáu; ngày thứ bảy là ngày sabat của người Do Thái
nên không có ai ra thăm mộ Ngài; vào sớm ngày thứ nhất
trong tuần[30],
các chị phụ nữ ra thăm mộ và thấy mồ
trống, không thấy xác Đức Yêsu đâu (Mc. 16, 1-8;
Mt. 28, 1-8; Lc. 24, 1-12; Ga. 20, 1-10).
Đức Yêsu Nazareth chết
trên thập tự và mộ trống, là sự kiện
đă được nhiều người xác nhận, nghĩa
là, đây là những sự kiện
đă được kiểm chứng.
Đức
Yêsu Phục Sinh không hiện ra cho tất cả mọi
người, nhưng Ngài chỉ hiện ra cho một số
người. Ngài đă hiện ra cho các tông đồ ngay
chiều ngày thứ nhất trong tuần, nhưng lần
này vắng mặt Thomas (Ga. 20, 19-25). Không thể tin
được chuyện người chết sống lại,
tông đồ Thomas đă nói: “Nếu nơi tay Ngài, tôi không
thấy các dấu đinh, và tra tay tôi vào lỗ đanh, cùng
tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin”
(Ga. 20, 25). Tám ngày sau, tức cũng vào ngày thứ nhất
trong tuần, Đức Yêsu lại hiện ra cho các tông
đồ, và lần này có cả Thomas nữa, Đức
Yêsu Phục Sinh đă mời Thomas làm điều ông muốn
để kiểm chứng rằng Ngài đă sống lại,
nhưng Thomas đă thốt lên lời tuyên xưng: “Lạy
Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi” (Ga. 20, 28).
Theo
tin mừng Yoan, Đức Yêsu Phục Sinh c̣n hiện ra và
chuẩn bị bữa sáng cho các tông đồ sau khi các ngài
đi đánh cá ở hồ Tibêria (Ga. 21, 1 tt). Theo tin mừng
Luca, Đức Yêsu Phục Sinh đă hiện ra cho hai môn
đệ trên đường Emmau, Ngài cũng hiện ra
trước đó cho Simôn, và cho các tông đồ, cùng ăn
trước mặt họ (Lc. 24, 1 tt). Theo tin mừng
Matthêu, Đức Yêsu đă hiện ra cho nhóm phụ nữ
(Mt. 28, 9tt và //); và Ngài cũng đă hiện ra cho các tông
đồ, cùng dạy họ đi rao giảng và làm phép rửa
nhân danh Ngài (Mt. 28, 16-20). Với mệnh lệnh đi rao giảng
thâu nạp môn đồ khắp muôn dân này, các tông đồ
đă trở thành nhân chứng của đức Yêsu Phục
Sinh, và tin mừng “Đức Yêsu phục sinh” đă loan truyền
khắp thiên hạ.
Tử
nạn phục sinh của Đức Yêsu là sự kiện,
nhưng là sự kiện đức tin, biến cố
đức tin. Đức Yêsu Phục Sinh không hiện ra cho
tất cả mọi người, thế nên để tin
Đức Yêsu phục sinh, người ta cần ân sủng
của Thiên Chúa, cần tác động của Chúa Thánh Thần
để tin vào lời rao giảng của các tông đồ
và những người kế vị các ngài. Mầu nhiệm
cứu độ được thực hiện qua trung
gian con người với ân sủng của Thánh Thần.
Đức
tin của kitô hữu hiện thời, cũng là đức
tin của các kitô hữu tiên khởi, và cũng là đức
tin của các tông đồ. Có thể nói, đức tin của
các tông đồ được diễn tả qua năm
bài giảng được ghi lại trong sách Công Vụ các
tông đồ:
· Lời rao giảng của
Phêrô sau khi nhận lănh Thánh Thần trong ngày lễ ngũ tuần
(Cv. 2, 14-39);
· Lời rao giảng của
Phêrô ở đền thờ sau khi chữa lành người
què ở đền thờ (Cv. 3,12-26);
· Lời rao giảng của
Phêrô trước công nghị Do Thái sau khi Ngài chữa lành
người què và bị bắt (Cv. 4, 9-12);
· Lời giảng của
Phêrô trước công nghị sau khi được thiên thần
giải phóng khỏi tù để tiếp tục rao giảng
trong đền thờ (Cv. 5, 29-32);
· Lời rao giảng của
Phêrô tại nhà Côrnêliô (Cv.10, 34-43).
Trong
sách Công vụ tông đồ, và đặc biệt trong
năm bài giảng, luôn luôn thấy lặp đi lặp lại
khẳng định: các tông đồ là những chứng
nhân phục sinh của Đức Yêsu Kitô (Cv. 1, 8. 22; 2, 32;
3, 15; 5, 32;10, 39. 41; 13, 31 v.v.):
· Cv. 1, 8: Các ngươi
là chứng nhân cho Ta ở Yêrusalem và mút cùng bờ cơi trái
đất.
· Cv. 2, 32: Thiên Chúa đă
phục sinh Đức Yêsu. Chúng tôi là chứng nhân của những
điều này, chúng tôi và Thánh Thần.
· Cv. 4, 20: Chúng tôi không thể
không nói về những điều đă thấy và đă
nghe.
· Cv. 10, 39: chúng tôi là chứng
nhân về những điều Ngài đă làm trong vùng người
Do Thái và ở Giêrusalem.
Là tông đồ, nghĩa là, chứng
nhân của Đức Yêsu Phục Sinh; v́ vậy tiêu chuẩn
để chọn một người thay thế Yuđa
Iscariot, phải là người đă đồng hành với
các tông đồ suốt thời gian mà Đức Yêsu
đă ra vào giữa các Ngài (Cv. 1, 21-22).
Bây
giờ xét kỹ một bài rao giảng của Phêrô để
thấy rơ trọng tâm lời rao giảng của các tông
đồ, chẳng hạn Cv.2, 14-40:
· Cv.2, 14-21: lời kêu gọi
dân chúng, lư do;
· Cv.2, 22-24: nội dung chính
của lời rao giảng “Đức Yêsu, Đấng anh
em đă nộp và giết đi, Thiên Chúa đă làm cho Ngài sống
lại”;
· Cv.2, 25-28: trích dẫn
Tv.16 để minh chứng;
· Cv.2, 29-31: chú giải
thánh vịnh hướng về đức Yêsu;
· Cv.2, 32-33: trở lại
lời rao giảng và làm rơ hơn;
· Cv.2, 34-35: trích dẫn
Tv.110 để minh chứng khẳng định;
· Cv.2, 36: trở lại
lời rao giảng, kêu gọi dân chúng tin vào sự kiện
phục sinh của Đức Yêsu “Thiên Chúa đă đặt
làm Chúa và làm Kitô, Đức Yêsu mà các người đă
đóng đinh kia” (Cv. 2, 32).
Không
phải chỉ một ḿnh Phêrô làm chứng, nhưng tất
cả các tông đồ, tập thể những người
đă đi theo Đức Yêsu, những người đă
sống với Ngài, đă chứng kiến Ngài chịu khổ
h́nh, và cũng là những người đă thấy và sống
với Đức Yêsu Phục Sinh.
Đức
Yêsu Phục Sinh đó, “Thiên Chúa đă đặt làm Chúa và
làm Kitô”, Người mà các ông đă đóng đinh (Cv. 2, 36),
Ngài “được nhắc lên bên hữu Thiên Chúa” (Cv. 2,
33). Đây là cách diễn tả hữu h́nh một thực tại
vô h́nh: “ngồi bên hữu Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng
thiêng liêng! Ngồi bên hữu ai, là ngang hàng với người
ấy. Đức Yêsu Phục Sinh được siêu tôn
trên tất cả, để được ngồi bên hữu
Thiên Chúa.
Khi
Đức Yêsu Nazarét c̣n sống, Ngài đă được
coi là một tiên tri, là đấng Thiên Sai[31],
là con Thiên Chúa[32];
c̣n với biến cố phục sinh, các tông đồ
đă nhận ra Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
Đức
Yêsu bắt đầu sứ mạng của Ngài với cách
thức của một tiên tri. Như Yona rao giảng thống
hối, và như Yoan tẩy giả, Đức Yêsu bắt
đầu rao giảng: “hăy thống hối và tin vào tin mừng,
v́ Nước Trời đă gần đến” (Mc.1, 14-15;
Mt. 4, 17).
Trong
hội đường tại Nazarét, Đức Yêsu đă
dùng bản văn trong sách đệ nhị Ysaya nói về vị
thiên sai tiên tri để áp dụng cho chính ḿnh: “Thánh Thần
Chúa ngự trên tôi, Ngài đă sai tôi đi rao giảng tin mừng
cho người nghèo khó” (Lc.4, 18-19 cf. Ys. 61, 1 tt). Dân thành Naim,
sau khi thấy Đức Yêsu làm cho con trai bà góa sống lại,
đă đồng thanh nói “một tiên tri cao cả đă xuất
hiện giữa chúng ta” (Lc.7, 16). Các tông đồ cũng
xác nhận sự kiện dân chúng cho rằng Đức Yêsu
là một tiên tri (Mt. 16, 14). Biệt phái và tư tế không
dám bắt Ngài khi Ngài đang rao giảng, v́ dân chúng coi Ngài là
một tiên tri (Mt. 21, 46). Hai môn đệ Emmau cho rằng
Đức Yêsu là vị tiên tri quyền năng trong lời
nói và hành động (Lc. 24, 19). Dân chúng cũng cho rằng
Đức Yêsu là vị tiên tri phải đến mà mọi
người đợi trông (Mt. 21, 10-11 cf. Đnl. 18, 18).
Tuy
Đức Yêsu không tự nhận ḿnh là một tiên tri,
nhưng Ngài tiên đoán số phận của Ngài là số
phận của một tiên tri: bị khinh khi nơi quê
hương xứ sở (Mt. 13, 57) và bị chết ở
Yêrusalem (Lc. 13, 33).
Xét
như người mặc khải, Ngài lớn hơn Yona
(Mt. 12, 40), lớn hơn Môsê và Êlia (cf. Mc. 9, 2-10; Mt. 17, 1-13;
Lc. 9, 28-36), lớn hơn David (Mc. 12, 35-37 và //), và lớn
hơn Yoan tiền hô[33]
(Lc. 7, 18-23 và //). Đức Yêsu là Đấng kiện toàn lề
luật và các tiên tri (Mt. 5, 17); Ngài không nói “Yahweh phán...”
như các tiên tri đă thường nói, nhưng Ngài lại
nói: “c̣n ta, Ta bảo các ngươi” (Mt. 5, 22. 28. 32); “Ngài giảng
dạy như một Đấng có uy quyền” (Mc.1, 27).
Kitô
(CristoV) hay Massiah[34],
có nghĩa là “được xức dầu”. Trong truyền
thống Do Thái, người “được xức dầu”
là:
· vua, được
Thiên Chúa trao ban sứ mạng (1S. 10, 1tt; 16, 1tt; 1V. 1, 39; 2V.
9, 6; 11, 12),
· thượng tế
(Xh. 29, 7. 29; Lv. 4, 3. 5. 16; 8, 12 cf. Za. 4, 14) hoặc các tư tế
(Xh. 30, 30; 28, 41; 40, 15; Lv. 7, 36; 10, 7; Ds. 3, 3),
· các tiên tri (Ys. 61, 1tt).
Các vị vua thường
được các tư tế hay tiên tri xức dầu (cf.
1S. 16, 13; 1V. 1, 39; 2V. 9, 6). Aharon và các con ông, được
Môsê xức dầu tấn phong làm tư tế (Xh. 30, 30). Các
tiên tri, những người của Thần Khí (Hos. 9, 7),
nên việc xức dầu của tiên tri cũng là việc của
Thần Khí (Ys. 61, 1tt).
Thời
đức Yêsu, người Do Thái sống dưới ách
đô hộ của người Roma, nên họ vẫn mong
Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai Vua tới để giải
phóng họ khỏi ách thống trị của người
Roma. Niềm khao khát mong muốn có Đấng Thiên Sai Vua rất
mạnh đối với người Do Thái trong thời
điểm này. Điều này có thể được thấy
qua việc Yoan tẩy giả sai người thỉnh vấn
xem Đức Yêsu có phải là Đấng phải đến
không (Lc. 7, 19-20), và qua biến cố dân chúng muốn tôn
đức Yêsu làm vua sau khi Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều
(Ga. 6, 15).
Các
tông đồ cũng cho rằng Đức Yêsu là Kitô[35].
Đức Yêsu chấp nhận đúng là như vậy,
nhưng Ngài không muốn cho dân chúng biết (Mt. 16, 20), v́ họ
thường hiểu Kitô theo nghĩa Kitô Vua chính trị,
Đấng đến để giải phóng họ khỏi
bị người Roma đô hộ.
Dân
chúng khi rước đức Yêsu vào thành Yêrusalem long trọng,
là tiếp đón Ngài như một vị vua thiên sai (Mt. 21,
1-11). Ngài ngồi trên lưng lừa, theo như tiên tri
Zacharia loan báo (Zac. 9, 9), để khẳng định tính
vua thiên sai của Ngài, nhưng không như người ta
mong đợi. Trước ṭa Philatô, chính đức Yêsu
đă nhận “tôi là vua, chính v́ lẽ này mà tôi sinh ra...
nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này”
(Ga. 18, 37. 36).
Đức
Yêsu là Kitô, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Giải
Phóng; Ngài đến không phải để giải phóng con
người khỏi ách nô lệ chính trị, nhưng để
giải phóng con người khỏi tội, khỏi làm nô lệ
ma quỷ; Ngài là vua, nhưng là vua trong ḷng mọi người.
Với
biến cố phục sinh của Đức Yêsu, các tông
đồ có cái nh́n mới về Đức Yêsu. Trước
các ngài thấy Đức Yêsu là một tiên tri, là đấng
Kitô; nhưng với biến cố Đức Yêsu Phục
Sinh, và những lần tiếp xúc với Ngài sau khi Ngài phục
sinh, các tông đồ c̣n thấy cái ǵ hơn nữa. Các tông
đồ đă nhớ lại những lời nói của
Ngài, những việc Ngài đă làm, và đă nhận ra Ngài là
Con Thiên Chúa theo nghĩa rất đặc biệt.
Từ
ngữ “một Thiên Chúa ba ngôi vị” cũng như từ
ngữ “Đức Yêsu đồng bản tính với Thiên
Chúa”, là những phạm trù thần học có sau này;
nhưng nội dung đức tin “Đức Yêsu là Thiên
Chúa”, đă có nơi các tông đồ với kinh nghiệm gặp
gỡ Đức Yêsu Phục Sinh.
Chỉ
có một ḿnh Thiên Chúa có thể tha tội; thế mà Đức
Yêsu đă tha tội! Đức Yêsu phạm thượng
hay Đức Yêsu là Thiên Chúa? Khi chữa lành người bất
toại, Đức Yêsu nói “tội lỗi của con đă
được tha” (Mc. 2, 5); và khi bị phản đối,
Ngài nói “để các ông biết con người có quyền
tha tội dưới đất- Ngài nói với người
bất toại- Ta bảo ngươi, hăy chỗi dậy
vác chơng mà về nhà” (Mc. 2, 9-11). Nếu Đức Yêsu phạm
thượng, chắc chắn Ngài không thể làm phép lạ
chữa lành người bất toại được.
Đây cũng là lư luận của người mù từ thuở
mới sinh (Ga. 9, 1tt); anh ta đă trả lời tương
tự như thế khi người biệt phái và kư lục
muốn anh ta nói rằng Đức Yêsu là người tội
lỗi: “Điều này quả cũng lạ! Các ông lại
không biết ông ấy tự đâu ra! ông ấy đă mở
mắt cho tôi! chúng tôi biết Thiên Chúa không nhậm lời
những hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm
theo ư Người, th́ Người nhậm lời kẻ ấy.
Không đời nào thiên hạ đă nghe ai mở mắt
đứa mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy
không bởi Thiên Chúa mà đến, th́ đă chẳng làm
được ǵ” (Ga. 9, 30-33).
Đức
Yêsu, khi sinh thời, Ngài đă nói: “Ta và Cha là một”.
“Người Do Thái lại vác đá ném Ngài v́... một lời
phạm thượng! ông là người phàm mà dám cho ḿnh là
Thiên Chúa” (Ga. 10, 30. 31. 33).
Khi
thẩm vấn Đức Yêsu trước công nghị Do
Thái, vị Thượng Tế hỏi Đức Yêsu: “Ông
là Đức Kitô Con Đấng đáng chúc tụng ư?
Đức Yêsu đáp lại: Chính là tôi! và các ông sẽ thấy
Con Người ngự bên hữu quyền năng và đến
với mây trời. Thượng tế mới xé toạc phẩm
phục của ḿnh ra và nói: Nào c̣n cần ǵ đến nhân
chứng nữa! Các người vừa nghe lời phạm
thượng! Các ngài thấy sao? Họ đều quyết
nghị Ngài can án chết” (Mc. 14, 61-64).
“Con
người ngự bên hữu quyền năng”, đây là lời
nói cho thấy Đức Yêsu ư thức thân phận ḿnh, cao
hơn mọi tạo vật, ngang hàng với Thiên Chúa quyền
năng. Chính v́ vậy mà các người trong công nghị mới
cho rằng Đức Yêsu phạm thượng, và đáng bị
kết án tử h́nh.
Với
biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, lời Đức
Yêsu đă nói khi sinh thời được bảo đảm
là lời chân thực, được Thiên Chúa bảo đảm.
V́ nếu Ngài nói lời gian dối, th́ Thiên Chúa đă chẳng
phục sinh Ngài từ cơi chết; chính biến cố tử
nạn và phục sinh của Đức Yêsu, làm các tông đồ
nhận ra rằng, Đức Yêsu là Kitô, là Chúa, là Đấng
ngự bên hữu Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa theo nghĩa rất
đặc biệt (tử hệ thần linh), là Thiên Chúa.
iv.
Đức Yêsu là Con Thiên Chúa
Tước
hiệu “con Thiên Chúa” đă được dùng nhiều trong
Cựu Ước. Nó không thiết yếu diễn tả tử
hệ bản tính (nguồn gốc thần linh của
người hay ngôi vị được gọi); nó có thể
chỉ là tử hệ thừa nhận, là kết quả của
việc tuyển chọn của Thiên Chúa đối với
tạo vật trong một tương quan đặc biệt.
Trong nghĩa này, tước hiệu “con Thiên Chúa” đă
được gán cho các thiên thần (Job. 1, 6; Đnl. 32, 8),
cho dân được tuyển chọn (Xh. 4, 22; Kng.18, 13;
Đnl. 1, 31; 7, 6), cho các người Israel và những người
công chính (Đnl. 14, 1; Hos. 2, 1 cf. Mt. 5, 9. 45), cho các vị thủ
lănh (Tv. 82, 6), cho vị vua thiên sai (1 Ks. 17, 13; Tv. 2, 7; 89, 27).
Như
vậy, tước hiệu này không hàm chứa người
được gọi mang thần tính. Trường hợp
Đức Yêsu được gọi là “con Thiên Chúa”, cũng
được hiểu như vậy. Không thể đ̣i hỏi
từ ngữ “con Thiên Chúa” mà Satan gọi Đức Yêsu (Mt.
4, 3. 6), hay các thần ô uế (Mc. 3, 11; 5,7; Lc. 4, 41), hay của
viên bách quản (Mc. 15, 39; Lc. 23, 47), hàm chứa chỉ Đức
Yêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Và câu hỏi của thượng
tế trước ṭa công nghị (Mt. 26, 3), cũng không
vượt qua ư nghĩa thiên sai.
Tuy
vậy, tước hiệu “con Thiên Chúa” có thể
được hiểu theo một nghĩa rất đặc
biệt, như tử hệ theo bản chất. Đức
Yêsu trong dụ ngôn những người làm vườn nho
giết người, đă tự nhận ḿnh như người
con thừa tự duy nhất (Mc.
12, 6; Mt. 21, 37); Đức Yêsu có Thiên Chúa là Cha cách rất
đặc biệt (Ga. 20, 17; Mt. 7, 21; 10, 32-33; 11, 27; 12, 50);
Ngài là con cưng, con chí ái (Mc. 1, 11 và //; Mt. 3,17; 17, 5); Ngài là
người con duy nhất có chỗ đứng đặc
biệt và có trách nhiệm đặc biệt: “không ai biết
Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ Con và những
người Con muốn mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27).
Động từ ginoskein và epiginoskein chỉ sự biết bằng
kinh nghiệm và bằng đời sống thân thiết. Những
lời trên, cộng thêm với những lời khác về
phẩm tính thiên sai thần linh của Ngài, và tất cả
được xác chuẩn bởi biến cố phục
sinh, làm cho từ ngữ “con Thiên Chúa” nơi Đức Yêsu
mang ư nghĩa chỉ tử hệ theo bản tính thần
linh[36].
Chỉ
với ánh sáng của biến cố phục sinh, các tông
đồ mới nhận ra ư nghĩa thâm sâu của tước
hiệu “Con Thiên Chúa” nơi Đức Yêsu.
V́ là Lời nhập thể,
Đức Yêsu đă mặc khải Thiên Chúa cách tuyệt vời.
Không có Đức Yêsu, con người không thể biết
Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.
Với
ánh sáng phục sinh, tông đồ Yoan đă nhớ lại lời
Đức Yêsu đă nói với Nicôđêmô vào ban đêm:
“Thiên Chúa đă yêu mến thế gian, đến đỗi
đă ban Con Một của Ngài, ngỏ hầu mọi kẻ
tin vào Ngài th́ không phải hư đi, nhưng được
sự sống đời đời” (Ga. 3, 16).
Trong
lời cầu nguyện trước khi chịu khổ
h́nh, Đức Yêsu đă nói: “sự sống đời
đời là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa đích thực
và độc nhất, và Đấng Cha sai đến, Yêsu
Kitô” (Ga. 17, 3).
Đức
Yêsu là Lời Thiên Chúa cứu độ con người. Ngài
mặc khải Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga. 14,
9), “Không ai biết Cha trừ Con và những người Con
muốn mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27; Ga. 14, 6-7). Con người
biết ǵ về Thiên Chúa, là biết qua đức Yêsu Kitô,
và biết trong Đức Yêsu Kitô. Không có tri thức đích
thực về Thiên Chúa nếu không qua Lời Thiên Chúa, và cụ
thể là qua Đức Yêsu Kitô. Biết Thiên Chúa, là biết
Ngài yêu thương con người vô cùng.
Đức
Yêsu đă mặc khải Thánh Thần. Ngài nói về Thần
Khí như một ngôi vị: “Và ai có nói lời nghịch
đến Con Người, điều đó có thể tha
thứ được cho người ấy; nhưng nếu
ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ
không tha thứ cho người đó, đời này cũng
như đời sau” (Mt. 12, 32).
Theo
tin mừng Yoan, Đức Yêsu cho thấy chân tướng của
Thánh Thần. Thánh Thần đến từ Cha, Ngài
được gọi là Đấng Bầu Chữa khác
(Ga. 14, 16). Đấng Bầu Chữa, là Thần Khí Sự
Thật, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, cũng
như Con Một của Thiên Chúa cũng được ban
tặng con người (Ga. 14, 16; 3, 16), để ở với
con người luôn măi. Thánh Thần, Đấng Bầu Chữa,
được Cha sai đến nhân danh Đức Yêsu, với
sứ mạng dạy và nhắc nhớ: “Đấng Bầu
Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai nhân danh Ta, Ngài sẽ dạy
các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc lại cho
các ngươi mọi điều chính Ta đă nói” (Ga. 14,
26).
Thánh
Thần, được Đức Yêsu gởi tới,
để làm chứng cho Đức Yêsu:
“Đấng Bầu chữa, khi
Ngài đến, Ngài mà Ta sẽ từ nơi Cha gởi đến,
Thần Khí Sự Thật, Đấng tự Cha mà xuất
ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta” (Ga. 15, 26);
“C̣n nếu Ta đi, Ta sẽ sai
Ngài đến cùng các ngươi” (Ga. 16, 7);
sứ mạng của Thánh Thần
là “biện bác thế gian về tội, về sự công
chính, về án xử” (Ga. 16, 8).
“Ngài sẽ dẫn các ngươi
vào tất cả sự thật... Ngài sẽ làm Ta được
vinh hiển... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các
ngươi” (Ga. 16, 13.14).
Thánh
Thần có cùng nguồn gốc với Đức Yêsu, cùng
được Cha sai (Ga. 14, 26; 17, 3). Cả hai cùng
được trao ban sứ mạng. Đức Yêsu luôn lấy
ư Cha làm ư ḿnh, làm của ăn, và Ngài chu toàn công việc Cha
giao phó (Mt. 26, 39 //; Mc. 14, 36; Ga. 4, 34; Ga. 17, 4). Thánh Thần
được sai đến để ở với con
người, để làm chứng cho Đức Yêsu (Ga.
14, 16; 15, 26).
Sau
biến cố phục sinh, Đức Yêsu Phục Sinh
đă ban Thánh Thần cho các tông đồ (Ga. 20, 22), và khi tới
thời đă định, Thánh Thần tỏ hiện quyền
năng của Người trong ngày lễ Ngũ Tuần
(Cv. 2, 1tt).
iii.
Hội Thánh tiếp tục công tŕnh của Ngài
Thiên
Chúa là Đấng yêu mến thế gian, yêu mến con
người đến cùng cực, Ngài muốn con người
được sống đời đời. Chính để
cứu độ con người, mà ngôi Lời đă nhập
thể làm người, và để tiếp tục công
tŕnh cứu độ, Ngài đă thiết lập Hội
Thánh và Thánh Thần của Ngài vẫn luôn hoạt động
nơi Hội Thánh trên trần gian. Đức
Yêsu đă tuyển chọn nhóm mười hai, để họ
ở với Ngài và để Ngài sai đi rao giảng (Mc.
3,14). Giữa nhóm mười hai này, Phêrô được chọn
như người đại diện: “C̣n tôi, tôi bảo
ông: ông là Đá (Phêrô) và trên đá ấy tôi sẽ xây Hội
Thánh của tôi, và cửa âm phủ sẽ không thắng
được. Tôi sẽ trao cho ông ch́a khóa Nước Trời”
(Mt. 16, 18-19).
Simon
Phêrô cũng được Đức Yêsu trao nhiệm vụ
củng cố đức tin của anh em ḿnh: “Simon, Simon,
này Satan đă đ̣i được các ông, để quày cho
một trận như sàng lúa, nhưng tôi đă cầu xin
cho ông, để ḷng tin của ông không bị sờn núng. Phần
ông, khi trở lại rồi th́ lo cho anh em ông được
vững mạnh” (Lc. 22, 31-32); và hơn nữa, Phêrô c̣n
được trao trọng trách chăn cả chiên con lẫn
chiên mẹ (Ga. 21, 15. 16.17).
Về
phần các tông đồ, Đức Yêsu nói: “Các ông là những
người hằng bền đỗ ở với tôi giữa
các cơn thử thách tôi phải chịu; và tôi cho các ông
thông chia quyền Nước tôi, như Cha tôi đă thông ban
cho tôi, các ông sẽ được ăn uống nơi bàn
tiệc tôi, trong Nước của tôi, và các ông sẽ
được ngự trên ngai mà đoán xét mười hai
chi tộc Israel” (Lc. 22, 28-30).
Sứ
mạng của các tông đồ cũng được
Đức Yêsu lập lại rơ ràng sau khi Ngài phục sinh:
“Cũng như Cha đă sai Ta, Ta cũng sai các ngươi”
(Ga. 20, 21). Theo tin mừng Matthêu, lần cuối cùng hiện
ra với các tông đồ, Đức Yêsu cũng nói: “Mọi
quyền năng trên trời dưới đất đă
được trao ban cho Ta. Vậy các ngươi hăy đi
thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng,
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy chúng giữ hết mọi
điều Ta đă truyền cho các ngươi” (Mt. 28,
18-20).
Theo
tin mừng Yoan, trong những lời tâm huyết cuối
cùng, Đức Yêsu đă nói về Đấng Bầu chữa,
Thánh Thần sự thật. Đức Yêsu hứa sẽ
sai Đấng Bầu Chữa đến khi Ngài ở bên
Cha, và Thần Khí sự thật sẽ làm chứng cho Ngài
(Ga. 15, 26). Đức Yêsu c̣n nói thêm: “Và các ngươi cũng
sẽ làm chứng, v́ từ ban đầu các ngươi hằng
ở với Ta” (Ga. 15, 27).
Chỉ
với biến cố Thánh Thần tỏ hiện trong ngày lễ
Ngũ Tuần, các tông đồ và đại diện là
Phêrô, mới can đảm đứng lên rao giảng làm chứng
cho Đức Yêsu Phục Sinh (Cv. 2, 1tt). Phải chăng nếu
Thánh Thần không được ban cho các tông đồ, các
tông đồ đă không đủ can đảm và khôn ngoan
làm chứng cho Đức Yêsu Phục Sinh; cũng có thể
nói: chính Thánh Thần đă làm chứng về Đức
Yêsu Phục sinh qua các tông đồ, qua những người
kế vị các Ngài, và qua những kẻ tin vào Đức
Yêsu Phục Sinh. Chính các tông đồ là những người
ư thức về sứ mạng làm chứng của Thánh Thần
ngang qua các ngài, nên Phêrô đă nói: “và chúng tôi đây xin làm chứng
về các điều ấy cùng với Thánh Thần...(Cv. 5,
32)”.
Lịch
sử Hội Thánh, là lịch sử Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh nơi mỗi kẻ tin. Sách Công
Vụ Tông Đồ cho thấy những tác động của
Thánh Thần:
· Chính Thần Khí tác
động khiến các tông đồ rao giảng làm chứng
cho Đức Yêsu Phục Sinh, cũng chính Thần Khí sai
Barnaba và Saolô đi rao giảng (Cv. 13, 2. 4).
· “Không ai có thể nói:
Yêsu là Chúa, mà lại không bởi sức Thánh Thần” (1Cor.
12, 3).
Thiên
Chúa đă làm tất cả cho con người! Điều
con người ngày xưa ao ước như sống lâu, tồn
tại qua con cháu, hạnh phúc như sung túc về của cải
và có đất sinh nhai[37],
th́ ngày nay, tất cả những điều đó
được hoàn tất nơi Đức Yêsu như bảo
đảm để được sống đời
đời, được sống hạnh phúc v́ có Thiên
Chúa làm gia nghiệp, có Nước Trời là sở hữu
vĩnh cửu (x. Mt. 5, 2. 4). Có Thiên Chúa là có tất cả,
tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Yêsu Kitô là được
sự sống đời đời, là được
chính Thiên Chúa là gia nghiệp.
Được
yêu thương như vậy, con người phải có
thái độ sống tương hợp: tin tưởng
vào Thiên Chúa quan pḥng yêu thương (Mt. 6, 25-34). Tâm t́nh phải
có đối với Thiên Chúa là tâm t́nh cha con, tâm t́nh của
những người được yêu (Mt. 6, 5-15 và //). Thái
độ đối với anh em: phải yêu thương
nhau như Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta (Mt. 5, 38-48),
đừng thù hận, hăy ăn chay và bố thí (Mt. 6, 1-4; 6,
16-21), đừng xét đoán (Mt. 7, 1-5). Thái độ đối
với của cải: xem nó chỉ là phương tiện,
không được coi tiền của như ông chủ (Mt.
6, 24. 19-21).
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Về
các nổi khổ đau của dân con
[2] Như
thấy trong những tŕnh thuật tiếp theo, dân con
[3] Có lần Thiên Chúa nổi nóng với Môsê (Xh. 4, 14); và nhiều lần Môsê t́m cách thoái thác sứ mạng (Xh. 3, 11; 4, 1. 10; 4, 13; 5, 22tt)
[4] Yahweh phán với Môsê: Khi ngươi trẩy đi để về Ai cập, ngươi hăy nh́n tỏ là các điềm thiêng Ta sẽ đặt tay ngươi th́ ngươi sẽ làm trước mặt Pharaô.
[5]
Nhưng Ta sẽ làm cho nó cứng ḷng và nó sẽ không buông thả
dân đâu. Bấy giờ ngươi sẽ nói với Pharaô
“Yahweh phán rằng: con đầu ḷng của Ta là
[6] Cái chết thể xác của các con đầu ḷng người Ai Cập có thể là điều gây cái tốt nơi Pharaô và con dân Ai cập: v́ họ có thể nhận ra Yahweh và thống hối, quay trở về với Người, không c̣n bất tuân lệnh Người nữa. Trong cái nh́n của chúng ta, cái chết thể xác không là điều ác tuyệt đối khi nó giúp chúng ta trở về với Chúa, được sống đời đời trong tương lai.
[7] J. E. McKENZIE, art. “Aspects of Old Testament Thought”, trong Jerome Biblical Commentary, p. 749
[8] Art. cit., p. 750
[9] Nơi
[10] Art. cit., p. 751
[11] Yêu thương là hành vi tự do và nhưng không.
[12] R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB-PARIS 1966, p. 28
trích dẫn J. PEDERSON,
[13] Ibid., p. 388
[14] H. FRIES, Art. “La Révélation”, trong MYSTERIUM SALUTIS, t. I, vol. I, CERF-PARIS 1969, p. 262 trích dẫn E. BRUNNER, Offenbarung und Vernunft, p. 103
[15] R. LATOURELLE, op. cit., p. 18
[16] không chủ yếu cho người thời tương lai, dù rằng có thể giúp cho người thời tương lai.
[17] H. FRIES, art. cit., p. 262
[18] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 750
[19] Ibidem
[20] Ibidem
[21] H. CAZELLES, Introduction à la Bible (Introduction critique à l'ancient Testtament), t. II, DDB. 1973, p. 359
[22] H. FRIES, art. cit., p. 225; trích dẫn F. STIER, Die Geschichte Gottes mit den Menschen, DUESSELDORF 1962, pp. 40tt
[23] thần ngoại, hebel.
[24] trong giao ước, vua được dân công nhận.
[25] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 749
[26] Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhắc đến khôn ngoan của Ai cập (Ys. 19, 3-15; Kng. 17, 7), khôn ngoan của Babylon (Ys. 47, 10-13; Yer. 10, 7; 50, 35), khôn ngoan của Ả rập (1V. 5, 10; Yer. 49, 7; Bar. 3, 22); nhưng khôn ngoan của Salomon vượt trên các khôn ngoan của Ai cập và phương đông (1V. 5, 10) và trên các khôn ngoan của người bản xứ Canaan, tức là của Etan và Hêman (Tv. 88-89).
[27] R. LATOURELLE, op. cit., p. 26 trích dẫn R. W. ROBINSON, Inspiration and Revelation in the Old Testament, p. 235-237
[28]
Nơi các dân tộc lân cận, có những trung tâm để
dạy khôn ngoan và khoa học như ở Mari,
[29] v́ niềm tin mà bị giết.
[30] bây giờ chúng ta gọi là ngày Chúa Nhật.
[31] Massiah, Christos, Đức Kitô, đấng được xức dầu.
[32] Chúng ta cũng được gọi là con Thiên Chúa, nhưng là con v́ chúng ta được nhận ; con Thiên Chúa như người ta hiểu Đức Yêsu trước biến cố phục sinh, cũng là con thừa nhận, không phải là con đồng bản tính như các tông đồ biết sau biến cố tử nạn và phục sinh.
[33] Yoan tiền sai môn đệ đến thỉnh vấn; Đức Yêsu cho ḿnh vượt trên các tiên tri như người con vượt trên các đầy tớ (Mc. 12, 1-12).
[34] chữ Do Thái đă được viết bằng mẫu tự latinh.
[35] Đấng thiên sai, Đấng được xức dầu.
[36] như thấy trong Rm. 9, 5; Ga. 1, 1. 18; 20, 28; 1Ga.5, 20; Tit. 2, 13
[37] ơn gọi Abraham.