HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
MỤC LỤC:
Sau
công đồng Trentô, mặc khải là vấn đề
sôi bỏng đối với anh em tin lành; và như vậy,
mặc khải cũng là vấn đề được
các thần học gia công giáo lưu ư. Những người
theo thần giáo (Deism) cho rằng có Thiên Chúa nhưng không cần
mặc khải; lư trí con người có khả năng nhận
biết chân lư, ngay cả những chân lư về bản tính
Thiên Chúa.
i.
Một vài tác giả tin lành và thần giáo
Benedict
Spinoza (1632-1677) chủ trương chỉ có lư trí có thẩm
quyền trong lănh vực chân lư; mặc khải chỉ liên
quan đến sự vâng phục và đạo đức;
thần học chỉ nên gồm những định tín về
đức tin phải vâng phục và để cho lư trí xác
định cách chính xác những chân lư phải được
hiểu thế nào. Mặc khải theo Spinoza, không thêm ǵ cho
điều có thể được lư trí biết[1].
John
Locke (1632-1704), trong tác phẩm Essay concerning Human Understanding xuất
bản vào năm 1700, cho rằng lư trí là mặc khải tự
nhiên, ở đó Cha Vĩnh Cửu của ánh sáng và là nguồn
của mọi điều hiểu biết thông truyền
cho nhân loại một phần sự thật mà Ngài đă
để lại trong tầm với của khả năng
tự nhiên của con người. Mặc khải là lư trí tự
nhiên được nới rộng bởi những khám phá.
Những
khám phá ở đây là ǵ? John Loke cho rằng đây là những
điều có thể biết được bởi những
người khôn ngoan, c̣n những người không có học
không thể biết được[2].
Gotthold
Ephraim Lessing (1729-1781) xác tín rằng chỉ có một tôn giáo
đích thực, đó là tôn giáo tự nhiên, tôn giáo nằm
trong phạm vi của lư trí con người.
Lessing
cho rằng, mặc khải th́ chân thực và có giá trị
như một phương pháp giáo dục con người
trong những điều chưa được lư trí khám
phá ra. V́ tiến tŕnh giáo dục này không bao giờ chấm dứt
nên theo Lessing, nếu kitô giáo được thanh tẩy khỏi
những yếu tố phi lư và mầu nhiệm, th́ kitô giáo sẽ
là tôn giáo gần nhất với tôn giáo tự nhiên.
Theo
Lessing, chứng từ tốt nhất của kitô giáo là cái
biết Thiên Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân. Đây là điều
Lessing gọi là “chứng từ của Thánh Thần và của
quyền năng” (cf. 1Cor. 2, 4); ông đă dùng từ ngữ
trên để đề tựa một bài suy ngắm. Chân
lư thâm sâu của kitô giáo hệ tại sự kiện: mặc
khải nói trực tiếp với ḷng chúng ta và với sự
chắc chắn cho chúng ta[3].
Emmanuel
Kant (1724-1804) cũng đồng quan niệm với Lessing về
tri thức lịch sử, nhưng Kant ư thức giới hạn
của lư trí con người. Kant cho rằng, lư trí thuần
lư (pure reason) không thể chứng minh sự hiện hữu
của những thực tại siêu việt; tuy vậy, những
ư niệm của lư trí thuần lư này như linh hồn, tự
do, và Thiên Chúa, là nền tảng không thể thiếu
được cho luân lư và tôn giáo.
Trong
hệ thống triết lư của Kant, người ta không
t́m thấy chỗ đứng cho mặc khải hiểu
theo nghĩa truyền thống kitô giáo.
Nền
luân lư của Kant độc lập với mọi nền
siêu h́nh có trước. Kant khẳng định trong
Foundations of a Metaphysics of Morals: lư trí thực tiễn trong việc
đáp trả những đ̣i buộc luân lư, mở
đường đi tới đức tin tôn giáo. Nếu
một người tin rằng họ được một
vị thần linh hướng dẫn, th́ người
đó dễ dàng ḥa hợp hành động của họ với
đ̣i hỏi của mệnh lệnh tuyệt đối
(categorical imperative). Như vậy, mệnh lệnh của
lư trí thực tiễn tương đương với mặc
khải thần linh[4].
Friedrich
D. E. Schleiermacher (1768-1834) lớn lên trong bầu khí sùng tín
(pietism). Ông đặt nền tảng triết lư về tôn
giáo không trên lư trí thuần túy nhưng trên t́nh cảm của
con tim (Gefuehl).
Schleiermacher
cho rằng con người trong ḍng kinh nghiệm hoặc
trong những kinh nghiệm t́nh cờ, nhận thấy ḿnh
tùy thuộc hoàn toàn vào cái bất biến, cần thiết,
vô hạn. T́nh cảm lệ thuộc tuyệt đối
này được Schleiermacher coi như tôn giáo. T́nh cảm
này làm nổi lên ư tưởng Thiên Chúa. Mỗi một sự
thông truyền của vũ trụ
cho con người đều là mặc khải[5].
Triết
gia Đan Mạch Soeren Kierkeggard (1813-1855) cho rằng, các chân
lư mặc khải thuộc b́nh diện hiện sinh.
Mặc
khải kitô giáo không thích hợp với triết lư và khoa học,
v́ mặc khải thực nghịch lư. Mặc khải
đ̣i sự chấp nhận hiện sinh bằng niềm
tin mù quáng. Với Kierkeggard, mặc khải hàm chứa uy quyền
và có vẻ mâu thuẫn dị kỳ đối với lư
trí; thế nhưng, không phải v́ vậy mà không thể chấp
nhận được.
Có
sự trái ngược giữa mặc khải và
phương pháp “dạy kiểu của Socrate”. Bởi v́
trong phương pháp của Socrate, học tṛ đă có và chỉ
cần giúp đỡ để học tṛ có thể chấp
nhận ra chân lư, vị thầy không phải là người
luôn luôn cần; c̣n đối với mặc khải, học
tṛ phải gắn bó thiết thân với vị thầy.
V́
đối tượng của đức tin là Mâu Thuẫn Vĩnh Cửu Đă
Làm Người, thế nên đức tin không đơn
thuần hoàn toàn là cái thuộc lư trí và ư muốn[6].
Georg
W. F. Hegel (1770-1831) đặt nghệ thuật, tôn giáo, và triết
lư trong tiến tŕnh biện chứng. Tinh thần tuyệt
đối là mút cùng của tiến bộ.
Mặc
khải đối với Hegel là tạm thời (tiền
triết lư), là sự tỏ lộ tạm thời của
tinh thần tuyệt đối trong lịch sử, chứ
mặc khải không là sự can thiệp tự do của
Thiên Chúa hiện hữu trong lịch sử. Đức tin
dưới lư trí, và tôn giáo dưới triết lư[7].
Duy
lư hoặc duy tín, đó là hai lập trường thái cực
mà anh em Tin Lành dễ rơi vào; C̣n đối với bên Công
giáo, lập trường duy tín cũng bắt đầu
xâm nhập do ảnh hưởng triết lư của Kant và
Schleiermacher. Lập trường này chủ trương
đức tin siêu nhiên tuyệt đối cần thiết
để con người nhận thấy những chân lư tự
nhiên của tôn giáo, chẳng hạn, sự hiện hữu
và những phẩm tính của Thiên Chúa, linh hồn bất tử,
các luật luân lư...
Louis-Eugène
Bautain (1796-1867) là giáo sư đại học Strabourg. Do ảnh
hưởng của Kant và kinh nghiệm bản thân cùng những
lư do tông đồ, Bautain đă đi tới kết luận
“đức tin là nguồn mọi nhận thức tôn giáo và
luân lư”. Ông cho rằng, sự nhận thức tự nhiên
không thể nhận ra sự hiện hữu của Thiên
Chúa.
Giám
mục Strabourg là De Trévern đă kết án lập trường
của Bautain năm 1834. Những mệnh đề Bautain
phải tuyên xưng được ghi lại năm 1840:
· Suy luận có thể chứng
minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và những phẩm
tính trọn hảo của Ngài;
· Đức tin giả sử
đă có mặc khải;
· Đức tin không thể
được viện dẫn như một lư chứng về
sự hiện hữu của Thiên Chúa đối với
người vô thần (DS. 2751);
· Dù bị yếu và lu mờ
bởi tội nguyên tổ, lư trí vẫn c̣n đủ sáng suốt
và sức mạnh để nhận ra sự hiện hữu
của Thiên Chúa một cách chắc chắn, nhận ra mặc
khải được tỏ lộ cho người Do Thái
qua Môsê và tỏ lộ cho kitô hữu qua Đức Yêsu Kitô
(DS. 2756).
Vào
năm 1844, Bautain phải kư nhận không dạy một số
điều, tựu trung là phải tôn trọng lư trí (DS.
2765-2769).
Sau
Louis-Eugène Bautain, Augustin Bonnetty (+1879) cũng rơi vào sai lầm
tương tự: quá đề cao mặc khải và phủ
nhận giá trị của lư trí.
Một
số người công giáo khác lại rơi vào sai lầm
ngược lại: quá đề cao lư trí và không phân biệt
cái biết theo lư trí với cái biết theo đức tin nhờ
mặc khải; chẳng hạn như nơi Georg Hermes
(1775-1831) và Anton Guenther (1783-1863)...
Đức
Piô IX, vào năm 1846, đă ra một thông điệp nhằm
giải quyết dứt khoát vấn đề tương
quan giữa lư trí và đức tin. Thông điệp Qui
Pluribus này khẳng định:
· nhiệm vụ của
lư trí nhân loại là dẫn tới mặc khải,
· lư trí phải suy phục
mặc khải nơi Lời Chúa,
· không có sự đối
nghịch hoặc mâu thuẫn giữa đức tin và lư
trí, v́ cả hai đều từ Thiên Chúa duy nhất (DS.
2775-2786).
Đức
Giáo Hoàng Piô IX, vào năm 1864, đă đưa ra một
sưu tập những sai lầm về các vấn đề
của thời đó, kể cả những sai lầm của
những người theo thuyết duy lư quá đề cao lư
trí (DS. 2903-2909).
Công
đồng chung
Những
sai lầm thời trước công đồng chung
· Luther chủ
trương, lư trí sau khi con người phạm tội
đă bị hủy hoại, không c̣n khả năng nhận
biết chân lư!
· Tự nhiên thần giáo
(Deism) rất thịnh hành ở Anh quốc quá đề cao
lư trí (như một phản ứng lại chủ
trương coi thường lư trí nơi những người
Tin lành).
· Sang thế kỷ XVIII,
phong trào triết lư ánh sáng xuất hiện và phát triển mạnh;
lư trí được đề cao tuyệt đối và dẫn
tới phủ nhận tri thức thuộc trật tự
khác- đức tin với lănh vực chân lư siêu nhiên
được mặc khải. Phong trào duy lư này cực thịnh
ở Đức vào thế kỷ XVIII và lan dần sang các
nước lân cận.
· Ở Pháp vào thế kỷ
XIX, xuất hiện những thần học gia công giáo chịu
ảnh hưởng bởi thuyết duy lư, quá đề cao
lư trí và không hiểu mặc khải nguyên tuyền như
truyền thống vẫn dạy. Họ vẫn dùng từ
ngữ mặc khải, nhưng nội dung không c̣n là mặc
khải nữa.
· Phản ứng chống
lại những người duy lư đề cao lư trí, một
số người trở lại quan niệm thái cực của
Luther, coi lư trí đă suy yếu tới mức độ
không c̣n có thể nhận ra chân lư, ngay cả những chân lư
thuộc lănh vực tự nhiên; những người này chủ
trương con người cần nhờ mặc khải
để biết chân lư, dù chân lư đó thuộc b́nh diện
tự nhiên. Đây là chủ trương của những
người bị ảnh hưởng bởi sùng tín
(piétisme) và duy tín (fidéisme) nơi anh em Tin Lành. Chủ
trương này c̣n được gọi một tên khác: duy
truyền thống.
Những
sai lầm trên đây đă được huấn quyền
Giáo Hội sửa sai, chỉnh đốn, kết án;
nhưng lạc giáo vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt.
Chính trong bầu khí này mà công đồng chung
Hiến
chế Dei Filius gồm bốn
chương. Chương đầu bàn về Thiên Chúa là
Đấng Tạo Hóa, chương hai bàn về mặc khải,
chương ba bàn về đức tin, và chương bốn
bàn về tương quan giữa đức tin và lư trí.
Chương
bàn về mặc khải được trích lại trong
DS. 3004-3007.
DS.
3004:
“Giáo
Hội Mẹ Thánh khẳng định và dạy rằng,
Thiên Chúa- nguyên lư và mục đích của mọi sự có thể
được nhận biết cách chắc chắn bởi
ánh sáng tự nhiên của lư trí con người qua các tạo
vật; thực vậy, những ǵ vô h́nh của Người
đă được trí khôn nh́n thấy qua các tạo vật
trên thế gian là những cái đă được Người
tạo thành: tuy nhiên theo sự khôn ngoan và nhân từ của
Người, Người đă mặc khải cho nhân loại
chính Người và ư định muôn đời của thánh
ư Người bằng một con đường siêu nhiên
khác, như lời thánh tông đồ đă phán: ngày xưa
nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đă nói với cha
ông qua các tiên tri, nhưng trong những ngày sau hết này,
Người đă nói với chúng ta qua Con người (Dt.
1, 1tt)”.
Qua
bản văn này công đồng khẳng định:
· Con người có thể
nhận biết Thiên Chúa bằng trí khôn của ḿnh. Đây
là điều chúng ta phải chấp nhận như đức
tin công giáo; c̣n nhận biết như thế nào, giải
thích việc nhận biết này ra sao, là nhiệm vụ của
các nhà thần học.
· Thiên Chúa đă mặc
khải cho con người bằng một con đường
khác, con đường siêu nhiên (ngoài con đường
b́nh thường mà lư trí có thể nhận biết Thiên
Chúa).
· Đối tượng
mặc khải: Thiên Chúa và chương tŕnh ư định
muôn đời của Người.
· Mặc khải là do
sáng kiến của Thiên Chúa, do ư định tốt lành và sự
khôn ngoan của Người, chứ không phải do cái ǵ
khác. Thiên Chúa không bị bó buộc phải mặc khải
cho con người. Mặc khải là hồng ân Thiên Chúa ban
cho con người.
DS.
3005:
“Chính
nhờ mặc khải thần linh này, những ǵ thuộc
thần linh tự bản chất không nằm trong tầm với
của lư trí con người, có thể được nhận
biết cách chắc chắn và không một chút sai lầm
trong hoàn cảnh hiện tại của con người.
Không phải v́ điều đó mà mặc khải
được coi là cần thiết, nhưng v́ ḷng tốt
lành vô cùng của Thiên Chúa, Ngài đă quy hướng con
người tới mục đích siêu nhiên, tới hưởng
các sự tốt lành thánh thiện vượt qua trí khôn con
người có thể hiểu; V́ những ǵ mắt không thấy,
tai không nghe, ḷng không thể hiểu, th́ Thiên Chúa đă chuẩn
bị cho những kẻ Ngài yêu (1Cor. 2, 9)”.
Theo
DS. 3005, mặc khải thực sự cần thiết v́:
· giúp con người nhận
biết các chân lư vượt quá khả năng con người,
· con người
được tạo dựng để hướng tới
mục đích siêu nhiên của ḿnh, và nếu không nhờ mặc
khải th́ con người không thể đạt được
mục đích này.
Nói
cách khác, nếu không nhờ mặc khải th́ con người
không thể biết các chân lư vượt quá sức con
người; và nếu không biết chân lư này, th́ không thể
đạt được cùng đích đời ḿnh là sống
hạnh phúc với Thiên Chúa, hưởng kiến Thiên Chúa.
DS.
3006:
“Mặc khải này, theo như
đức tin được thánh công đồng Trentô tuyên
bố, được chứa trong sách thánh và trong truyền
thống không được viết, được các
tông đồ lănh nhận qua môi miệng của chính Đức
Kitô, hay được truyền cho các tông đồ như
là từ tay qua tay dưới sự đọc cho viết
bởi Thánh Thần, và truyền đến chúng ta” (DS.
1501).
Với
bản văn này, công đồng đồng hóa mặc khải
với sách thánh và truyền thống; theo nghĩa này mặc
khải được hiểu ở đây là những chân
lư; tuy vậy điều này không phủ nhận thực tại
được mặc khải là thực thể sống
động, là Thiên Chúa hằng sống với ư định
vĩnh cửu của Ngài.
Sau
đây là những quy chuẩn đức tin, công đồng
lên án chống lại những người phủ nhận
giá trị của thần học tự nhiên, lên án những
người chủ trương tôn giáo tự nhiên, lên án những
người đề cao lư trí cách tuyệt đối!
DS.
3026:
“Nếu ai nói: Thiên Chúa Đấng
duy nhất và thân thực, Đấng tạo hóa và Chúa của
chúng ta, không thể nhận biết cách chắc chắn bởi
ánh sáng tự nhiên của lư trí con người, qua những
tạo vật, th́ bị tuyệt thông.”
Quy chuẩn đức tin này nhắm
tới sai lầm của những người mang danh duy
tín hoặc duy truyền thống. Họ phủ nhận giá
trị đích thực của lư trí, và như vậy phủ
nhận thần học tự nhiên.
DS.
3027:
“Nếu ai nói: việc con người
được dạy dỗ bởi mặc khải, về
Thiên Chúa và về việc thờ phượng phải dâng
kính Ngài, là chuyện không có thể và vô dụng, th́ người
đó bị tuyệt thông”.
Với quy chuẩn đức tin
này, công đồng bài bác lập trường cho rằng mặc
khải là điều không cần thiết, cũng như lập
trường cho rằng mặc khải là chuyện không thể
có được. Đó là lập trường của những
người cho rằng lư trí là đủ, không cần có mặc
khải.
DS.
3028:
“Nếu ai nói rằng, con người
không có thể được nâng lên đạt tới nhận
thức và sự trọn lành vượt qúa sức tự
nhiên của con người, nhưng con người có thể
và phải tự ḿnh đạt tới việc sở hữu
mọi điều chân thực và tốt lành bằng sự
tiến bộ liên tục, th́ người đó bị tuyệt
thông”.
Quy chuẩn này cho thấy công
đồng bài bác lập trường cho rằng mặc khải
là điều làm hạ giá con người, và như vậy
trái bản tính con người; lập trường này cho rằng,
quan niệm đúng đắn là con người phải tự
ḿnh đạt tới Thiên Chúa, v́ con người có thể
làm chuyện này.
DS.
3041:
“Nếu ai nói rằng, không có bất
cứ một mầu nhiệm đúng nghĩa nào trong mặc
khải và các tín điều có thể được hiểu
và tŕnh bày bởi lư trí của một người có học
dựa vào các nguyên tắc tự nhiên, th́ người đó
bị tuyệt thông”.
Đây là một quy chuẩn của
chương bốn hiến chế Dei Fillius, bàn về
tương quan giữa lư trí và đức tin. Quy chuẩn
này lên án chủ trương cho rằng lư trí con người
có khả năng đạt tới Thiên Chúa, mặc khải
là chuyện không cần thiết, không có mặc khải
đích thực, cái gọi là mặc khải cũng chỉ
nằm trong tầm với của lư trí con người.
Đây là lập trường của những người
theo tôn giáo tự nhiên (Deism) và phong trào duy lư.
DS.
3029:
“Nếu ai không nhận tất cả
và từng phần của Kinh Thánh như đă được
công đồng Trentô liệt kê là sách thánh và sách quy chuẩn,
hoặc phủ nhận tính linh hứng của các sách
đó, th́ người đó bị tuyệt thông”.
Khẳng định này nhằm bảo
vệ mặc khải. Như vậy, mặc khải ở
đây một lần nữa được đồng hóa
với Kinh Thánh như những chân lư.
Công
đồng
Thuyết
duy tân (modernisme) đă làm huấn quyền Giáo Hội bận
tâm nhiều. Những người theo duy tân thuyết nỗ
lực thích ứng giáo lư công giáo với tư tưởng
hiện đại, với những điều mà con
người thời đại chấp nhận.
Năo
trạng duy lư không chấp nhận tín điều, nên những
người theo thuyết duy tân giải thích lại tín
điều công giáo; nhưng khi làm điều này, họ
đă lấy tư tưởng hiện đại
đương thời làm tiêu chuẩn, và đă phạm sai
lầm khi cắt bớt hoặc giải thích sai lạc mặc
khải công giáo. Ở đây chỉ đơn cử hai tác
giả tiêu biểu, đó là Alfred Loisy và Georg Tyrrell[8].
Alfred
Loisy cho xuất bản quyển sách nhan đề L'Évangile
et l'Église vào năm 1902, nhằm trả lời quyển sách
của Adolf von Harnack (1851-1930) có tựa đề Wesen des
Christentums. Với quyển sách của Loisy này, có thể coi
duy tân thuyết được khởi đầu. Giáo quyền
đă lên án quyển sách này. Nó chủ trương yếu
tính của Kitô giáo chưa được xác định, v́
chân lư của Kitô giáo cũng như những chân lư nhân loại,
cũng tương đối và có tiến bộ.
Năm
1903, Loisy cho xuất bản quyển “Autour d'un petit livre” nhằm
biện minh cho lập trường của ḿnh. Trong quyển
sách này, ông viết: “Cái được gọi là mặc khải
chỉ là ư thức của con người trong tương
quan với Thiên Chúa... tương phản với tri thức
thuộc phạm vi lư trí và khoa học, tri thức chân lư tôn
giáo không chỉ là kết quả của lư trí nhưng nó c̣n
là công việc của trí khôn, được khám phá dưới
sự thúc đẩy của con tim, của luân lư và tôn giáo,
của ư muốn thực sự hướng tới sự
thiện”[9].
Theo
A. Loisy, mặc khải không là một giáo lư được
ban cho con người. Mặc khải cũng không là kho tàng
chân lư không đổi, nhưng là tri thức trực quan (và
kinh nghiệm) về tương quan giữa con người
và Thiên Chúa; tri thức trực quan này luôn biến đổi.
Mặc khải, xét như là tín điều thần học,
luôn biến đổi. Mặc khải đang được
h́nh thành[10].
Georg
Tyrrell tŕnh bày tư tưởng về mặc khải của
ḿnh trong quyển Through Scylla and Charybdis được xuất
bản vào năm 1907.
Theo
Tyrrell, mặc khải hệ tại một kinh nghiệm gần
như thần bí, và không được đồng hóa với
những cấu tố tri thức của kinh nghiệm này.
Các tông đồ đă lănh nhận trọn vẹn mặc
khải qua việc hiệp thông với đức Kitô. Mặc
khải nơi chúng ta phải là một kinh nghiệm tiên tri
mới, được lập lại nơi chúng ta. Mặc
khải không được truyền thông, nhưng có thể
được tạo dịp qua việc rao giảng và qua
những bản viết. Các tín điều của Giáo Hội
không là mặc khải, nhưng chỉ là phản ứng của
con người đối với mặc khải; Các tín
điều được dùng khi nó giúp đỡ và phải
bỏ khi nó che dấu mặc khải[11].
Tóm
lại, với Loisy, không có mặc khải. Cái người
ta gọi là mặc khải chỉ là những ư thức những
kinh nghiệm con người có về Thiên Chúa; như vậy,
mặc khải luôn thành h́nh, không là cái bất biến không
đổi. C̣n với Georg Tyrrell, có thực tại mặc
khải siêu việt, nhưng nó không được truyền
từ người này sang người kia; nghĩa là, mỗi
người phải lănh nhận mặc khải cho ḿnh; v́ vậy,
tín điều không là mặc khải. Như vậy theo Tyrrell,
có mặc khải nơi các tông đồ và các tiên tri,
nhưng những điều này không liên hệ và không bổ
ích cho chúng ta bao nhiêu.
Đứng
trước những sai lầm của thuyết duy tân về
mặc khải, huấn quyền đă can thiệp nhằm
bảo vệ tinh tuyền đức tin công giáo.
Sắc
lệnh Lamentabili được đức giáo hoàng Piô X
công bố ngày 03.07.1907 thu tóm 65 mệnh đề sai lạc
của chủ thuyết duy tân (DS. 3401-3466), trong số này có
những mệnh đề liên quan đến mặc khải
(DS. 3420-3426).
DS.
3420: “Mặc khải không là ǵ khác hơn ư thức con người
về tương quan giữa ḿnh và Thiên Chúa”.
Đây là mệnh đề của
Loisy, phủ nhận mặc khải được hiểu
theo nghĩa truyền thống của Giáo Hội Công Giáo.
DS.
3421: “Mặc khải cấu thành đối tượng
đức tin công giáo, không hoàn tất với các tông đồ”.
Đây là lập trường của
G. Tyrrell, chủ trương mặc khải tiến bộ,
hiểu theo nghĩa nó là những chân lư được con
người khám phá ra; như con người thay đổi,
những chân lư đó cũng thay đổi.
DS.
3422: “Các tín điều, điều mà Giáo Hội xác nhận
như là mặc khải, không là những chân lư từ trời
xuống (nguồn gốc thần linh), nhưng chỉ là lời
giải thích các sự kiện tôn giáo mà lư trí con người
có thể nhận ra với một nỗ lực nghiêm chỉnh”.
Đây cũng là lập trường
của Tyrrell. Ông cho rằng, các tín điều chỉ là nỗ
lực nhân loại chứ không phải là mặc khải.
Hiểu như vậy, con người có thể bỏ tín
điều này hoặc tín điều kia; hoặc nó sẽ
thay đổi thành một tín điều mới thích hợp
với con người hơn.
Thông
điệp Pascendi Dominici Gregis
được đức giáo hoàng Piô X ban hành vào ngày
08.09.1907, nhằm cảnh giác các tín hữu và mọi tầng
lớp trong Giáo Hội, để đừng rơi vào duy
tân thuyết[12].
Tự
sắc Sacrorum Atistites được
đức Piô X ban hành ngày 01. 09.1910, buộc tất cả
các giáo sĩ làm mục vụ hay công tác giảng dạy phải
thề từ bỏ tất cả các khẳng định
của thuyết duy tân về mặc khải và về truyền
thống!
DS.
3538:
“Thứ nhất tôi tuyên xưng rằng:
Thiên Chúa, nguyên lư và mục đích của mọi sự, có
thể được nhận biết cách chắc chắn,
và v́ vậy có thể được minh chứng bởi
ánh sáng tự nhiên của lư trí từ những cái đă
được tạo thành, nghĩa là bởi những công
tŕnh hữu h́nh tức tạo thành, như nguyên nhân bởi
kết quả”.
DS.
3539:
“Thứ hai, tôi biết và chấp
nhận những luận chứng bên ngoài của mặc khải,
tức là những sự kiện thần linh, nhất là các
phép lạ và các lời tiên tri, như là những dấu chỉ
rất chắc chắn chứng tỏ nguồn gốc thần
linh của Kitô giáo; và tôi khẳng định, chúng hoàn toàn
thích hợp với trí khôn của con người của mọi
thời đại, kể cả với thời đại
ngày nay”.
DS.
3540:
“Thứ ba, tôi tin với cùng một
đức tin chắc chắn rằng, Giáo Hội là thầy
và là người ǵn giữ lời mặc khải,
được chính Đức Kitô chân thực và lịch sử
thiết lập trực tiếp khi Ngài sống giữa
chúng ta; và tôi tin Giáo Hội này được xây trên Phêrô là
đầu của phẩm trật tông đồ, và trên những
người kế vị ngài trong mọi thời đại”.
DS.
3541:
Thứ tư, tôi nhận cách chân
thành giáo lư đức tin được truyền bởi
các tông đồ cho tới chúng ta qua các giáo phụ chính thống
với cùng ư nghĩa và cùng những lời giải thích; cũng
vậy tôi từ bỏ cách giải thích lạc giáo cho rằng
tín điều tiến hóa từ một nghĩa đen này
đến một nghĩa khác, khác với nghĩa mà Giáo Hội
đă có trước; cũng tương tự như vậy
tôi kết án mọi sai lầm cho rằng, sáng kiến triết
lư hay sự sáng tạo của ư thức con người,
được h́nh thành do nỗ lực của con người
và được hoàn chỉnh do những tiến bộ
không ngừng, sẽ thay thế kho tàng thần linh đă
được truyền lại cho hiền thê Đức
Kitô, và được ǵn giữ cách trung thành bởi chính
Giáo Hội.
DS.
3542:
“Thứ năm, tôi khẳng định
và tuyên xưng chân thành rằng, đức tin không là t́nh cảm
tôn giáo mù quáng h́nh thành từ vùng tối tăm của vô thức
do con tim và ư muốn luân lư thúc đẩy, nhưng là sự
đồng t́nh thực sự của lư trí đối với
chân lư được đón nhận do nghe (rao giảng),
điều mà chúng tôi tin rằng thật, được mặc
khải, được xác chuẩn, được phán
truyền bởi chính Thiên Chúa ngôi vị, được
phán truyền bởi chính Thiên Chúa ngôi vị, Đấng Tạo
Hóa và là Chúa chúng tôi, bởi quyền năng của Thiên Chúa
chân thực”.
Lược
đồ về mặc khải đầu tiên đă
được bàn căi từ 14.11.1962, và bản văn
được bỏ phiếu vào ngày 20.11.1962 với 1368
phiếu chống, 822 phiếu thuận, và 19 phiếu bất
hợp lệ. Đức giáo hoàng Gioan XXIII đă can thiệp,
trả lược đồ lại cho ủy ban hỗn hợp.
Bản
văn hiến chế Mặc khải Dei Verbum là bản
văn được bỏ phiếu vào ngày 29.10.1965 với
2081 phiếu thuận, 27 phiếu chống, và 7 phiếu bất
hợp lệ (2115 nghị phụ); vào ngày công bố
(18.11.1965) có 2344 phiếu thuận, 6 phiếu chống (tất
cả 2350 nghị phụ).
Hiến
chế Dei Verbum gồm 26 số, ngoài số dẫn nhập,
hiến chế được chia thành sáu chương:
Số 2-6: bàn về chính mặc
khải
Số 7-10: bàn về lưu truyền
mặc khải
Số 11-13: bàn về linh hứng
và giải thích Kinh Thánh
Số 14-16: Về Cựu Ước
Số 17-20: Về Tân Ước
Số 21-26: Kinh Thánh trong đời
sống Giáo Hội.
Giáo
tŕnh về mặc khải này lưu ư đặc biệt
chương một, từ số 2-6, v́ từ đây phát
sinh những tư tưởng phong phú và nền tảng của
thần học mặc khải.
Số
mở đầu tŕnh bày mặc khải như thực thể
sống động.
“Chúng
tôi loan truyền cho anh em sự Sống đời đời,
đă có nơi Chúa Cha và đă hiện đến với
chúng tôi: điều chúng tôi đă thấy, đă nghe, chúng
tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được
hiệp nhất với chúng tôi và chúng ta được hiệp
nhất với Chúa Cha và với Chúa Yêsu Kitô Con Ngài” (1Ga.1,
2-3).
Sự
Sống đă đến. Loan báo về sự Sống là
loan báo những điều ḿnh đă thấy đă nghe về
chính sự Sống này. Sự Sống đă nhập thể,
và hơn nữa sự Sống đă trở thành lời
được loan báo, đă trở thành chữ được
viết để loan báo. Như vậy, chúng ta không
được dừng lại ở lời loan báo, không
được dừng lại ở chữ viết để
loan báo, nhưng chúng ta phải vươn lên tới sự
Sống đời đời, tức là thực tại
được loan báo.
Dei
Verbum số 1 chưa đề cập đến đối
tượng mặc khải, nhưng đă thấy hàm chứa:
đối tượng mặc khải không chỉ là chữ
viết, không chỉ là lời loan báo về sự Sống,
nhưng chính là sự Sống ở nơi Cha và đă đến
giữa con người.
Mục
đích mặc khải, mục đích việc loan truyền
mặc khải, là để chúng ta được thông dự,
thông hiệp với chính Thiên Chúa là Cha và với Chúa Yêsu Kitô.
Đây cũng là mục đích của con người, là cứu
cánh của con người, là ơn gọi của chính con
người. Hiệp thông với Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh
cửu, là thiên đàng, là tất cả những ǵ con
người có thể ao ước.
Ở
đây công đồng cũng không đưa ra lời khẳng
định mặc khải là cần thiết, nhưng khi
tŕnh bày mặc khải như sự hiệp thông với
Thiên Chúa, công đồng cũng cho thấy mặc khải
là việc tối quan trọng để con người
đạt tới cùng đích đời người; không
có mặc khải, con người không thể hiệp thông
với Thiên Chúa được, và như vậy, không thể
đạt tới mục đích tối hậu của
đời người.
Số
2
Đối
tượng mặc khải: Thiên Chúa mặc khải chính
ḿnh và mầu nhiệm thánh ư Ngài. Thiên Chúa mặc khải
Ngài là ai cho con người, và khi mặc khải như vậy,
Ngài cũng cho con người biết con người là ai.
Mặc khải giúp con người biết nguồn gốc
của ḿnh, lư do hiện hữu của ḿnh, tương lai
ḿnh sẽ đi về đâu, cùng đích đời ḿnh là
ǵ, ḿnh phải có tương quan với Thiên Chúa ra sao! Và một
khi thấy rơ ư định của Thiên Chúa về ḿnh, con
người phải đáp trả.
Mục
đích mặc khải: giúp con người đi đến
với Chúa Cha, và được thông phần bản tính của
Người nhờ đức Kitô và Thánh Thần. Mặc
khải có mục đích giúp con người đạt
được hạnh phúc, đạt được cứu
cánh đời ḿnh, tức thông hiệp với Thiên Chúa.
Chiều
kích Ba Ngôi của mặc khải: con người đến
với Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô làm người và
trong Thánh Thần.
Lư
do mặc khải: nguyên động lực của mặc
khải là t́nh thương chứa chan của Thiên Chúa. Thiên
Chúa hoàn toàn tự do, không bị ép buộc bởi bất cứ
điều ǵ khi mặc khải cho con người. Thiên
Chúa hạnh phúc với chính Ngài, Ngài không có một nhu cầu
nào từ bên ngoài. Việc mặc khải cho con người
để họ tham dự sự sống với Người
là do t́nh thương của Người mà thôi; không có sự
cần thiết hữu thể hoặc luân lư nào buộc
Thiên Chúa phải mặc khải cho con người, xét về
khía cạnh Thiên Chúa.
Cách
thức mặc khải: Thiên Chúa ngỏ lời với con
người như một người bạn nói chuyện
với người bạn. Ngài trao đổi với họ,
mời gọi họ hiệp nhất với Ngài, và Ngài tiếp
nhận họ.
Mặc
khải mang chiều kích liên vị: Thiên Chúa tôn trọng và
yêu thương con người. Hành vi đối thoại,
là hành vi đề cao con người.
Mặc
khải có dự tính: mặc khải không là chuyện hời
hợt được thực hiện một sáng một
chiều, nhưng là cả một chương tŕnh,
được Thiên Chúa thực hiện qua hành động
và Lời.
Ở
đây vang vọng chữ DABAR của Do Thái: DBR gồm cả
biến cố và lời. Thiên Chúa không chỉ soi sáng tâm hồn
của các tiên tri, nhưng Ngài c̣n thực hiện những
biến cố trong lịch sử, và dùng lời để
giải thích sự kiện lịch sử này. Mặc khải
kitô giáo khác ơn khải ngộ nơi các hiền nhân hoặc
tiên tri của các tôn giáo khác.
Đức
Kitô là trung gian mặc khải, là mục đích mặc khải,
là mặc khải viên măn. Ngài là Lời và hành động
Thiên Chúa mặc khải cho con người. Nơi Đức
Kitô, chúng ta không c̣n phải chờ một mặc khải
nào mới nữa, v́ nơi Ngài là tất cả mặc khải;
Với Ngài mặc khải đă và đang đạt đến
đích.
Số
3:
Thiên
Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự
nhờ ngôi Lời, luôn yêu thương và chăm sóc con
người. Ngài không ngừng tỏ ḿnh cho con người
qua các tạo vật, ban sự sống đời đời
cho tất cả những ai t́m kiếm sự cứu rỗi
nhờ kiên tâm làm việc thiện; đó là lịch sử cứu
độ “bằng đường lối b́nh thường”.
Khi đến thời đă định, Ngài kêu gọi
Abraham và lập một dân tộc; Ngài đă dùng Môsê và các
tiên tri để dạy dỗ họ, để họ nhận
biết Ngài; với Abraham, Thiên Chúa đă bắt đầu
thực hiện một lịch sử cứu độ
“đặc biệt”.
Thiên
Chúa đă mặc khải trong ḍng lịch sử và qua lịch
sử dân Do Thái; Ngài đă mặc khải cho một số
người thuộc dân Do Thái nhưng hành động mặc
khải này nhắm đến nhiều người, nhắm
đến tất cả mọi người thuộc mọi
dân tộc. Từ Abraham, mặc khải có chiều kích lịch
sử v́ Thiên Chúa đă can thiệp vào lịch sử dân Do
Thái.
Số
4:
Đức
Yêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, là tiếng nói của
Thiên Chúa, là h́nh ảnh của Thiên Chúa, là Đấng mặc
khải Thiên Chúa, là chính mặc khải trọn hảo, là
tuyệt đỉnh mặc khải, là giao ước vĩnh
cửu, là sự sống đời đời. Với
Ngài, người ta không phải chờ đợi một mặc
khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Yêsu
Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang.
Số
5:
Vâng
phục đức tin, lời đáp trả đối với
mặc khải của Thiên Chúa. Để có đức tin
này, cần ân sủng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của
Thánh Thần.
Số
6:
Công
đồng tái khẳng định: Thiên Chúa muốn dùng mặc
khải để bày tỏ và thông ban chính ḿnh Ngài cùng những
ư định muôn đời của Ngài liên quan đến
phần rỗi nhân loại.
Công
đồng cũng tuyên xưng:
· Với ánh sáng tự
nhiên của lư trí, con người có thể nhận biết
cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lư và cứu cánh mọi
sự, khởi từ các tạo vật;
· Những ǵ thuộc về
Thiên Chúa mà tự nó vốn không vượt quá khả
năng lư trí con người, có thể được biết
cách dễ dàng chắc chắn không lẫn lộn sai lầm
nhờ mặc khải.
Công
đồng Vatican II trong hiến chế mặc khải Dei
Verbum, đă tŕnh bày đối tượng mặc khải
là thực thể sống động khôn ḍ, được
loan báo rao giảng, và phải được đáp trả
bằng sự vâng phục của đức tin.
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] AVERY DULLES, op. cit., p. 52
[2] J. LOCKE, Concerning Human Understanding, bk.4, ch.19, n.4
trích bởi A. DULLES, op. cit., p.53
[3] A. DULLES, op. cit., pp. 56-57
[4] A. DULLES, op. cit., pp. 58-59
[5] F. D. E. SCHLEIERMACHER, On Religion
trích bởi A. DULLES, op. cit., pp. 63-66
[6] Phần này được lấy trong A. DULLES, op. cit.,pp. 65-66
[7] A. DULLES, op. cit., pp. 66-67
[8] Alfred
Loisy (1857-1940) là linh mục, đă dạy Kinh Thánh tại
Institut catholique ở
Georg Tyrrell (1861-1909) vào ḍng Tên năm 1880, dạy luân lư hai năm tại Stonyhurst, thường viết trong The Month; bị khai trừ khỏi Ḍng năm 1906 v́ không từ bỏ duy tân thuyết.
[9] A. LOISY, The Gospel and the Church, PARIS2 1903, pp. 195-197
[10] R. LATOURELLE, op. cit., p. 302
[11] AVERY DULLES, op. cit., pp. 84-85
[12] Một phần thông điệp được trích trong DS. 3475-3580