HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
MỤC LỤC:
B.
ĐỨC YÊSU- DẤU CHỨNG T̀NH YÊU
b. Lịch sử- nét đặc biệt của
mặc khải kitô giáo
2. T́nh yêu được bày tỏ và chứng
thực qua Lời
3. Đức Yêsu Kitô, biểu tượng
t́nh yêu
Bây
giờ sẽ tŕnh bày một cái nh́n tổng hợp và nhất
quán về mặc khải kitô giáo:
Thiên Chúa là t́nh yêu
Đức Yêsu là dấu chứng
tuyệt vời t́nh yêu Thiên Chúa cho con người.
Mặc
khải là lời bày tỏ và chứng thực t́nh yêu Thiên
Chúa cho con người.
Qua
mặc khải nơi lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa
đă tỏ ḿnh như Đấng giải phóng dân
Qua
biến cố Yêsu Kitô, kitô hữu nhận biết “Thiên Chúa
là t́nh yêu” (1Ga. 4, 8. 16), Thiên Chúa là Thiên Chúa ba ngôi vị.
Thiên
Chúa là một bản tính nhưng là ba ngôi vị. Ba ngôi vị
Thiên Chúa nhưng là một Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa tất cả
là một trừ tương quan ngôi vị[1]. Cả
ba ngôi vị hiệp thông với nhau cách lạ lùng và tuyệt
diệu đến mức độ chỉ là một Thiên
Chúa T́nh Yêu.
T́nh
yêu là tương quan giữa ngôi vị với ngôi vị.
Nơi
những ngôi vị thực sự tự do, nghĩa là những
hiện hữu lư trí hướng về Hiện Hữu Tuyệt
Đối, tương quan giữa ngôi vị là t́nh yêu, bởi
v́ t́nh yêu là ngôi vị hướng về ngôi vị theo lư
trí “tự do”[2].
Nơi
ngôi vị có một vẻ đẹp nào đó rất
đáng yêu. Có thể nói, mỗi ngôi vị là một kiệt
tác của Thiên Chúa.
Nơi
Thiên Chúa, ba ngôi vị yêu thương nhau, cho nhau tất cả,
hiệp thông với nhau trong tất cả đến độ
có thể nói là một trong vinh quang, là một trong sự thật,
là một trong hoạt động[3],
v.v...
T́nh
yêu là ngôi vị thực sự tự do hướng về
nhau, cho nhau tất cả, trở nên một với nhau, hiệp
thông tới mức độ tuyệt vời. Tuy vậy,
t́nh yêu là hành vi tự do, không là hành vi đương nhiên
hay tất yếu theo thể lư. Như vậy khi nào không thể
cưỡng lại được, th́ không có tự do, và
không là t́nh yêu “đích thực”. Thiên Chúa là t́nh yêu; ba ngôi vị
Thiên Chúa yêu nhau đến độ là một trong tất cả,
đến độ có thể nói và phải nói, là một
Thiên Chúa.
Đối
với con người, Thiên Chúa yêu con người như thế
nào, đến độ nào, đó là tùy Thiên Chúa, do tự Thiên Chúa. Nhờ mặc
khải kitô giáo, con người biết “Thiên Chúa đă yêu
thế gian đến độ đă ban Con Một Người
cho thế gian...” (
· Thiên Chúa đă tuyển
chọn ta trong Đức Yêsu Kitô từ trước khi sáng
thế... Người đă tiền định cho ta
được phúc làm con bởi ḷng yêu mến (Eph. 1, 4-5);
· Thiên Chúa Cha gởi Thánh
Thần đến với chúng ta để luôn ở với
chúng ta (Ga. 14, 16. 26);
· Thiên Chúa Cha và Đức
Yêsu Kitô sẽ đến ở, lập cư nơi những
kẻ giữ lời Ngài (Ga. 14, 23);
· Chúa Cha yêu chúng ta như
yêu Chúa Yêsu (Ga.17, 23. cf. Ga.17, 20); Chúa Yêsu yêu chúng ta như Chúa
Cha yêu Chúa Yêsu (Ga.15, 9).
Thiên
Chúa, khi tạo dựng nên con người như một ngôi
vị, Ngài đă yêu con người. Nhưng với mặc
khải kitô giáo, với biến cố Đức Yêsu Kitô,
chúng ta được biết Thiên Chúa đă yêu con người
đến mức độ “vô cùng”.
T́nh
yêu là tương quan giữa hai ngôi vị[4].
Ân sủng là thực tại diễn tả t́nh yêu[5].
Ân sủng quí nhất là ban tặng chính ḿnh. Thiên Chúa đă
yêu thương con người, và Thiên Chúa đă ban cho con
người biết bao hồng ân, và ân sủng lớn nhất
là Thiên Chúa đă ban tặng chính Thiên Chúa cho con ngưởi,
ban tặng chính ḿnh cho con người.
Ân
sủng cũng chính là t́nh yêu. Khi hai người nam nữ
yêu nhau, họ cho nhau chính con người ḿnh, cho nhau để
trở nên một trong thân xác và tinh thần. Cho nhau chính bản
thân ḿnh, trở nên một với nhau, đó là tuyệt
đỉnh của hiệp thông. Thiên Chúa đă ban tặng
chính ḿnh Ngài cho con người, đă ở với con
người, để nên một với con người,
để con người trở nên Thiên Chúa[6].
Hiệp
thông với Thiên Chúa, trở nên một với Ngài, sống
trong tương quan thân thiết với Ngài, đó là ơn
cứu độ. Dưới một khía cạnh nào đó,
t́nh yêu, ân sủng, ơn cứu độ là một.
T́nh
yêu là tương quan liên vị, là tương quan của hiện
hữu tự do với nhau. Trong t́nh yêu không có cưỡng
bức, bó buộc thể lư, nhưng tự do.
Con
người có thể tỏ t́nh cho nhau và có thể nín lặng.
Tỏ t́nh cũng cho thấy mức độ t́nh yêu đối
với nhau. Thiên Chúa yêu con người khi tạo dựng
con người như một ngôi vị, như một hiện
hữu tự do, như tinh thần nhập thể.
Nhưng như vậy không có nghĩa Thiên Chúa thiết yếu
phải mặc khải cho con người. T́nh yêu là hành vi tự
do! Tỏ lộ t́nh yêu hay không, là tùy ở Thiên Chúa.
Khi
tra vấn lịch sử, con người nhận ra Thiên
Chúa đă mặc khải cho con người cách đặc
biệt. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như
tinh thần nhập thể, th́ con người có thể qua
các tạo vật nhận biết Thiên Chúa hiện hữu.
Nhưng nếu chỉ như vậy, cũng hợp lư;
không có ǵ buộc Thiên Chúa phải đi xa hơn, mặc khải
đặc biệt hơn cho con người. Thực tế
cho thấy Thiên Chúa đă mặc khải cho con người
trong ḍng lịch sử dân Do Thái và qua biến cố Đức
Yêsu Kitô. Đây là hành vi biểu lộ t́nh yêu của Thiên
Chúa cho con người. Mặc khải là ân sủng của
Thiên Chúa cho con người.
Con
người là hiện hữu “vật chất tinh thần”,
là tinh thần nhập thể. Con người không chỉ cần
thỏa măn những nhu cầu vật chất như ăn
ngủ, mà c̣n cần thỏa măn những khao khát tinh thần.
Con
người có tri thức, tri thức giác quan và tri thức
phản tỉnh. Chính nhờ khả năng suy luận của
lư trí mà con người biết ḿnh và biết thực tại
siêu việt. Không thể tách tri thức siêu vượt khỏi
con người nếu không muốn con người bị
què cụt và không triển nở toàn diện.
Con
người chỉ hạnh phúc trọn vẹn nếu con
người biết ḿnh được yêu và đáp trả
t́nh yêu. Hiểu như vậy, ơn cứu độ hàm chứa
mặc khải về t́nh yêu Thiên Chúa cho con người.
Ơn cứu độ chỉ được trọn vẹn
nếu con người nhận biết ḿnh được
cứu độ. Nơi con người, đáp trả t́nh
yêu hàm chứa nhận biết ḿnh được yêu; và
Thiên Chúa đă mặc khải cho con người biết
Ngài yêu con người bằng t́nh yêu đặc biệt.
Biết
ḿnh được Thiên Chúa yêu, đáp trả t́nh yêu
được diễn tả bằng ḷng tin ḷng trông cậy,
là khởi đầu của ơn cứu độ, của
sự hiệp thông hạnh phúc với Thiên Chúa.
Nếu
con người không biết Thiên Chúa, không biết ḿnh
được Thiên Chúa yêu, không biết thực trạng
con người ḿnh, th́ con người không thể đáp trả
t́nh yêu của Thiên Chúa. Không có t́nh yêu, th́ không có tin tưởng
và trông cậy; và như vậy không có sự thông hiệp trọn
vẹn, không có hạnh phúc tṛn đầy.
Mặc
khải Thiên Chúa ban cho con người, tri thức con người
về Thiên Chúa và t́nh yêu của Ngài đối với con
người, là tri thức cứu độ con người.
“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu
và được nh́n biết sự thật” (1Tm. 2, 4). “Sự
sống đời đời là chúng nhận biết Cha,
Thiên Chúa chân thật và độc nhất, và Đấng Cha
sai đến, Yêsu Kitô” (Ga. 17, 3).
b. Lịch sử- nét đặc biệt của mặc khải kitô giáo
Các
tôn giáo trên thế giới đều đề cập
đến những chân lư giúp con người được
cứu độ. Đặc biệt nơi ngộ đạo
thuyết (gnosticisme), những người theo chủ thuyết
này cho rằng họ sở hữu những chân lư có khả
năng giải phóng con người, giúp con người
được cứu độ.
Theo
nghĩa rộng nhất, ngộ đạo chỉ tất
cả các loại giáo thuyết nhận ḿnh có thể tŕnh
bày cho các tín đồ một con đường dẫn tới
trọn lành; con đường này là một cách thức nhận
biết những thực tại không hiển nhiên[7].
C̣n theo truyền thống văn chương kitô giáo, ngộ
đạo chỉ những lạc giáo phát sinh thời đầu
của Hội Thánh như Valentinus, Marcion,...[8].
Những giáo phái này có cái nh́n lệch lạc về Kinh Thánh
hoặc về tạo dựng.
Mọi
tôn giáo đều nhận ḿnh có thể chỉ cho tín đồ
con đường giải thoát; chẳng hạn như Ấn
giáo (Bà-la-môn), Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo. Như vậy,
có chân lư giải phóng cứu độ con người.
Nhưng đâu là chân lư cứu độ? đâu không là chân
lư và không giúp giải phóng con người?
Để
giải quyết vấn đề này người ta phải
truy t́m những bằng cớ khách quan giúp nhận biết
những chân lư cứu độ đích thực. Thánh
Augustinus đă mất gần nửa đời người
mới nhận biết chân lư đích thực, và nhận ra
những sai lầm nơi ngộ đạo và các triết
thuyết[9].
Mặc
khải Kitô giáo không chỉ là những tri thức, những
ư niệm, hữu thể của lư trí con người;
nhưng mặc khải kitô giáo, những chân lư cứu độ
thực sự, đă được chứng thực qua những
thực tại khách quan, qua những biến cố lịch
sử, qua lời thành xác phàm (Ga. 1, 14).
Lịch
sử dân
T́nh
yêu là tương quan liên vị. Trong hiện trạng tại
thế của con người, t́nh yêu được diễn
tả bằng ân sủng và bằng lời.
Lời
hiểu như DABAR tiếng Do thái, có nghĩa là chính sự
vật, là cái mà lời nói về[10].
Như vậy, Lời là cái các tiên tri trong lịch sử dân
Do Thái nói về, là các biến cố lịch sử của
dân Do Thái, là lời các tiên tri, là lời Thiên Chúa ban cho con
người.
Lời,
hiểu như logos tiếng Hy lạp, là lư trí. Không có lư trí,
không có t́nh yêu[11].
Lời diễn tả t́nh yêu, lời biểu lộ t́nh yêu.
Không có lời, không có tri thức, và như vậy không có lời,
t́nh yêu không được cảm nhận.
Lời
c̣n được hiểu như verbum mentis, tức ư niệm[12].
Những ư niệm một người có trong lư trí cũng
được coi như lời. Hiểu lời như vậy,
khi Thiên Chúa mặc khải cho một người bằng
ơn soi sáng, trong giấc mơ hay thị kiến, cũng
là mặc khải bằng lời. Như vậy, lời cũng
được hiểu là những quyết định
được thực hiện trong tâm trí nhưng chưa
nói ra hoặc chưa làm ǵ để thực hiện ra bên
ngoài.
Lời,
theo nghĩa b́nh thường vẫn được dùng, chỉ
lời được nói ra. Lời là hành vi của hiện
hữu tự do, lời là hành vi tự do của hiện hữu
sở hữu lư trí. V́ thế, lời diễn tả và mặc
khải chủ thể phát ngôn lời. Lời mặc khải
các ngôi vị phát ngôn, và như vậy, lời giúp đối
thoại, giúp hiểu biết ngôi vị phát ngôn và diễn tả
ngôi vị dùng lời.
Trong
hoàn cảnh hiện tại của Hội Thánh lữ hành, lời
bí tích là dấu chỉ ban ân sủng, biến con người
thành một hiện hữu mới, biến con người
trở thành con Thiên Chúa, và liên kết con người với
Thiên Chúa.
Lời
bày tỏ t́nh yêu, và không chỉ thế, lời chứng thực
t́nh yêu. Thánh Ynhă Loyola nói trong sách Linh Thao “t́nh yêu hệ tại
việc làm hơn lời nói” (LT. 230 cf. 1Ga.3, 18). Nơi con
người, người ta thường nói nhiều hơn hành
động, và những ǵ người ta nói không nhất
thiết luôn đi đôi với hành động; nhưng
điều thường xảy ra nơi con người
th́ lại không đúng với Thiên Chúa: nơi Thiên Chúa, những
ǵ Ngài phán đều là thực tại.
Thiên
Chúa tạo dựng tất cả v́ con người, v́ t́nh
yêu đối với con người. Thiên Chúa đă tạo
dựng tất cả bằng lời của Ngài: “Thiên Chúa
đă phán: hăy có ánh sáng; và đă có ánh sáng” (
Thiên
Chúa không chỉ yêu và diễn tả t́nh yêu của Ngài đối
với con người qua việc tạo dựng bằng Lời,
nhưng Ngài c̣n dùng Lời Ngài làm nên lịch sử Israel qua
việc giải phóng dân Israel ra khỏi Ai cập bởi
Môsê.
Những
điều Thiên Chúa nói với Môsê phải được
thực hiện và đă được thực hiện:
· “Ta sẽ ở với
ngươi. và này là những dấu chứng thực là Ta
đă sai ngươi: khi ngươi đă dẫn dân ra khỏi
Ai cập... Các ngươi sẽ thờ Thiên Chúa trên núi này”
(Xh. 3,12);
· “Ta biết: vua Ai cập
sẽ không cho phép các ngươi đi, trừ phi là dưới
một bàn tay mạnh. Nhưng Ta sẽ giương tay
đánh phạt Aicập bằng đủ thứ sự lạ
Ta sẽ làm giữa nó. Và sau đó hắn sẽ thả các
ngươi đi” (Xh. 3, 19-20);
· “Bấy giờ
ngươi sẽ nói với Pharaô: Yahweh phán rằng: Con
đầu ḷng của Ta là
Những
điều Môsê nói không phải là của Môsê, nhưng là của
Thiên Chúa; chính v́ vậy những lời Môsê nói nhân danh Thiên
Chúa sẽ trở thành hiện thực, trở thành biến
cố “Vậy bây giờ ngươi hăy đi, chính Ta sẽ
ở với miệng ngươi và Ta sẽ dạy cho
ngươi điều ngươi phải nói” (Xh. 5, 12).
Sách
Xuất Hành cho thấy những điều Thiên Chúa phán truyền
đă được thực hiện. Thiên Chúa đă giải
phóng dân
Thập
giới, mười giới răn được Thiên Chúa
ban cho dân
· Sách Thẩm Phán cho cái
nh́n về lịch sử dân Israel, lịch sử những
phản bội và hối hận, lịch sử ghi lại
những can thiệp của Thiên Chúa đối với dân
riêng của Ngài;
· Các sách lịch sử
c̣n lại như sách Samuel, sách các vua, sách kư sự..., cũng
cho thấy những thăng trầm của dân Israel đối
chiếu với đời sống đời sống giữ
giao ước của dân;
· Các sách tiên tri cũng
cho thấy Thiên Chúa can thiệp bằng lời trong lịch
sử dân
Lịch
sử dân Israel đă được lời các tiên tri loan
báo trước, hoặc đă được lời các
tiên tri giải thích sau đó, là lời Thiên Chúa làm nên lịch
sử dân Israel, là dấu chỉ để con người
hiểu được Thiên Chúa và con người, là dấu
chỉ cho thấy t́nh yêu Thiên Chúa bày tỏ cho con người
và đặc biệt là cho dân tộc Do Thái.
Trong
Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa thường nói với con
người, chẳng hạn “Yahweh đă hiện ra cho
Abraham và phán bảo ông” (
Thiên
Chúa đă không dừng lại với những lần hiện
ra cho một số người, Ngài cũng không chỉ giới
hạn việc phán bảo trong một số trường
hợp. Với t́nh yêu, Ngài đă thực hiện một
điều vượt quá sức hiểu biết của
con người: Lời Thiên Chúa đă thành xác phàm (Ga. 1, 14).
T́nh
yêu không chỉ hệ tại lời nói, nhưng chủ yếu
hệ tại việc làm[16]!
Trong t́nh yêu, các ngôi vị hướng tới hiệp nhất,
trở thành một với nhau. T́nh yêu giữa con người
cho thấy như vậy! Khi hai người yêu nhau họ
trở thành một thân thể. Khi yêu, các ngôi vị thông ban
cho nhau những ǵ ḿnh có, để rồi tất cả là
chung; như vậy người ta chia sẻ cho nhau của
cải, chức quyền, tri thức,...! Sự trao ban đạt
tới cao điểm khi mỗi người tận hiến
chính ḿnh cho người ḿnh yêu. Nếu Lời Thiên Chúa làm
người, nếu Thiên Chúa ban tặng chính Ngài cho chúng ta,
th́ Thiên Chúa yêu con người vô cùng!
Nhập
thể làm người, là hành vi Thiên Chúa thông ban chính ḿnh.
“Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con
Một Người, để những ai tin vào Ngài th́ không
phải hư đi nhưng được sự sống
đời đời” (Ga. 3, 16).
Trong
thời gian Đức Yêsu đi rao giảng, Ngài đă làm
nhiều phép lạ. Lúc đầu nhiều người
đến nghe Ngài, và nhiều người muốn làm môn
đệ Ngài; nhưng khi nghe những lời Ngài rao giảng,
một số đă bỏ đi v́ điều Ngài nói “không
thể chấp nhận được” (Ga. 6, 61. 66). Dù lời
rao giảng của Đức Yêsu được các phép lạ
đi kèm[17],
nhưng những lời của Đức Yêsu quá đặc
biệt, đến độ người ta không chấp
nhận được!
Vài
lời nói “khác thường” của Đức Yêsu:
· Ngài nhận Ngài có quyền
tha tội. Theo quan niệm của người Do Thái, chỉ
có Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Mc.2, 5.7; Lc.7, 48-49);
· Ngài nhận Ngài có
trước Abraham (Ga. 8, 58);
· Ngài nhận Ngài và Cha là
một (Ga. 10, 30); Ngài đă bị người ta lấy
đá ném, v́ “Ông là một người phàm mà dám cho ḿnh là
Thiên Chúa” (Ga. 10, 33);
· Ngài nhận Ngài là “Con
Người ngự bên hữu quyền năng và đến
với mây trời” (Mc. 14, 62). Lời này làm Đức Yêsu bị
kết án tử v́ người ta cho rằng Ngài phạm
thượng, chỉ là con người mà dám nhận ḿnh
ngang hàng với Thiên Chúa.
Sau
biến cô tử nạn và phục sinh, các tông đồ nhận
ra Đức Yêsu Nazareth là Con đích thực của Thiên
Chúa theo bản tính, là Thiên Chúa, v́ nếu Ngài nói không đúng
sự thật, th́ Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài từ
cơi chết. Nếu Thiên Chúa đă phục sinh Ngài, hàm chứa
những điều Ngài nói về Ngài và về Thiên Chúa, phải
là những điều chân thực.
Nếu
Đức Yêsu Nazarét là Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên
Chúa, th́ t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người
thật vô cùng! “Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi
đă ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con Ngài
th́ không phải hư mất nhưng được sống
đời đời” (Ga. 3, 16). Đức Yêsu Kitô là Lời
Thiên Chúa, lời bày tỏ t́nh yêu của Thiên Chúa cho con
người. Nơi Đức Yêsu Nazareth, nơi con người
chết treo thập giá, t́nh yêu của Thiên Chúa Cha được
mặc khải. Đức Yêsu Kitô là dấu chỉ t́nh yêu
của Thiên Chúa cho con người.
Đức
Yêsu không chỉ làm chứng rằng Thiên Chúa Cha yêu con người,
nhưng Ngài c̣n mặc khải cho con người biết
Ngài cũng yêu con người vô cùng. “Không có t́nh yêu nào lớn
hơn là thí mạng sống ḿnh v́ bạn hữu” (Ga. 15, 13)[18].
Đức
Yêsu là đường, là sự thật, và là sự sống
(Ga. 14, 6). Đức Yêsu vừa là phương tiện mặc
khải, vừa là nội dung mặc khải. Ngài là
phương tiện mặc khải tuyệt vời, v́ Ngài
là Lời Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. “Không ai
đến với Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga. 14, 6b).
Ngài
là nội dụng mặc khải, v́ Ngài là Lời Thiên Chúa,
là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh” (Col. 1, 15). “Ai thấy Ta
là đă thấy Cha” (Ga. 14, 9b). Ngài là t́nh yêu của Thiên Chúa
được bày tỏ, ai biết Ngài là biết
được t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người, ai tin Ngài là tin vào Thiên Chúa, là tin vào Thiên Chúa t́nh
yêu. Ai giữ Lời Người th́ ở trong t́nh yêu, và ở
trong t́nh yêu th́ biết Thiên Chúa. Cái biết đây không c̣n ở
trạng thái lư luận của lư trí, nhưng ở tại sự
đồng cảm của con tim. Chính nhờ t́nh yêu mà lư trí
biết Thiên Chúa.
Đức
Yêsu là mục đích của mặc khải, v́ khi con người
đáp trả mặc khải bằng tin vào Ngài, phó thác vào
Ngài th́ con người được sống đời
đời (Ga. 3, 16b), được ở trong Thiên Chúa,
được sống trong t́nh yêu .
Nói
một cách khác như trong tin mừng theo thánh Yoan, Đức
Yêsu là sự sáng (Ga. 9), là mục tử tốt lành (Ga. 10),
là Nước hằng sống (Ga. 4), là Bánh hằng sống
(Ga. 6), là sự sống lại và là sự sống (Ga. 11).
Thánh
Thần mà Đức Yêsu hứa ban, đă tỏ hiện
vào ngày lễ Ngũ tuần (Cv. 2, 1 tt), là bảo đảm
t́nh yêu của Thiên Chúa Cha và của Chúa Yêsu đối với
con người. Nhờ Đức Yêsu mà Thánh Thần đă
được ban cho con người. Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh, nơi những kẻ tin,
để rồi Hội Thánh trở thành dấu chỉ của
Thánh Thần, trở thành dấu chỉ t́nh yêu của Thiên
Chúa đối với con người.
Thánh
Thần thánh hóa con người, làm cho con người nên
thánh. Chính Thánh Thần làm cho con người tuyên xưng
đức Yêsu là Chúa: “Không ai có thể nói Đức Yêsu là
Chúa mà lại không bởi sức Thánh Thần” (1Cor. 12, 3).
Đức Yêsu nói: “Nếu các ngươi lưu lại
trong lời Ta, th́ hẳn thật, các ngươi là môn đồ
Ta, và các ngươi sẽ biết sự thật, và sự
thật sẽ cho các ngươi được tự do”
(Ga. 8, 31-32). “Khi nào Ngài đến, v́ là Thần Khí sự thật,
Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự
thật” (Ga. 16, 13). Thiên Chúa thánh hóa chúng ta bởi Thánh Thần
của Người, bởi Lời mà Thánh Thần dạy
chúng ta[19]
“xin hăy tác thánh chúng trong sự thật, Lời của Cha là
sự thật” (Ga. 17, 17).
Thiên
Chúa là Đấng thánh, là Đấng chí thánh, chỉ có một
ḿnh Thiên Chúa là Đấng thánh. Khi Thiên Chúa đến ở
với ai Ngài sẽ làm người đó ta được
nên giống Ngài, nghĩa là được trở nên thánh,
tách biệt khỏi thế gian và chỉ thuộc về
Thiên Chúa thôi. Khi được nên giống Thiên Chúa, thuộc
về Thiên Chúa, tức là được cứu độ.
Lời
hứa Thiên Chúa cho Abraham, nói lên khao khát của Abraham và của
tất cả mọi người: có đất đai làm
gia nghiệp, có con nối dơi tông đường, nên mối
chúc lành[20].
Khao
khát có con cái nối ḍng là một h́nh thức khác của ao
ước sống lâu, trường sinh bất tử [21].
Thiên Chúa đă mặc khải cho dân
Con
người khao khát có nhiều tiền của. Sung túc[23] cũng
là dấu chỉ của một người được
thương và hạnh phúc. Nhưng nếu Đức Yêsu
Kitô là Quà Tặng Thiên Chúa ban cho con người, nếu Thánh
Thần là Quà Tặng của Thiên Chúa Cha và Con cho con người,
th́ đâu c̣n ǵ khác quư hơn để con người ao
ước nữa? Những ǵ thuộc trần thế làm
sao so sánh được với hồng ân là chính Thiên Chúa?
Có Thiên Chúa là có tất cả. Thiên Chúa là tài sản, là gia nhiệp
của những người được Thiên Chúa yêu.
Đức Yêsu là bảo đảm cho những người
tin vào Ngài rằng họ được Thiên Chúa yêu
thương, và Thiên Chúa là gia nghiệp của họ[24].
Dân
Israel đă từng cầu nguyện và mong chờ Thiên Chúa
sai Đấng Kitô tới giải phóng họ khỏi làm nô
lệ bên Aicập, khỏi sự đàn áp của các dân tộc
vùng Canaan, khỏi ách nô lệ lưu đày Babylon. Thiên Chúa
đă nhận lời, Ngài đă sai Môsê, các thẩm phán, vua
Kytô xứ Batư đến để giải phóng họ.
Khi thời gian viên măn, lúc dân Israel mong chờ Thiên Chúa sai
Đấng Kitô giải phóng họ khỏi làm nô lệ
đế quốc Roma, th́ Ngài đă sai Đấng Kitô là
chính Con Ngài xuống, không phải để giải phóng họ
khỏi ách nô lệ chính trị, nhưng để giải
phóng họ khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đức
Kitô Con Một Thiên Chúa đă giao ḥa con người với
Thiên Chúa, đă đưa con người thoát khỏi nô lệ
tội lỗi và ma quỉ, dẫn con người đến
với Thiên Chúa.
Đức
Yêsu Kitô Phục Sinh đă hoàn tất mặc khải,
nhưng con người vẫn phải chờ mọi sự
được tỏ lộ vào ngày Chúa quang lâm[25].
Đức Yêsu đă hứa Ngài sẽ trở lại
đón chúng ta: “Và nếu Ta ra đi và dọn chỗ cho các
ngươi, th́ Ta sẽ đến lại và đem các
ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi
cũng ở đó” (Ga. 14, 3). Về
ngày và giờ Chúa quang lâm, không ai biết trừ Chúa Cha[26].
Vào ngày đó, Thiên Chúa sẽ làm mới mọi sự (Kh. 21,
5), sẽ có trời mới đất mới (Kh. 21, 1). Ngày
đó, Đức Yêsu Kitô sẽ biến đổi thân xác
khốn hèn của ta, trở nên đồng h́nh đồng
dạng với thân xác vinh quang của Ngài (Ph. 3, 21). Ngày
đó, những kẻ chết trong Đức Kitô sẽ sống
lại (1Thess. 4, 16), sẽ đi đón Chúa, sẽ
được ở với Chúa luôn măi (1 Thess. 4, 17). Đó
là ngày Thiên Chúa thu họp vạn vật dưới một
đầu một mối là Đức Kitô, dù vật
nơi trời cao dù vật nơi dương thế (Eph.
1, 10).
Đức
Yêsu Kitô là Đấng hoàn tất mặc khải, là tột
đỉnh của mặc khải. Thời hiện tại
là thời đại cánh chung. Vào ngày Chúa quang lâm, Thiên Chúa sẽ
là tất cả cho mọi sự. Trong tâm t́nh chờ đợi,
chúng ta luôn hợp với tất cả mọi kitô hữu
tuyên xưng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đă chịu
chết, và tuyên xưng Chúa đă sống lại, cho tới
khi Chúa lại đến”[27].
Giáo
tŕnh này đă xem xét
· khả thể mặc
khải ở phần I:
Thiên Chúa mặc khải
cho con người hay không, là tùy Ngài;
· Thiên Chúa đă mặc
khải cho dân
bằng những điềm
thiêng dấu lạ, Thiên Chúa đă giải phóng dân
Cũng trong phần này, một dấu lạ tuyệt
vời là Đức Yêsu Kitô; chính nhờ biến cố tử
nạn và phục sinh của Đức Yêsu Kitô mà con người
nhận ra t́nh yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối
với con người;
· phần III:
những nỗ lực của
tín hữu nhằm lư giải đức tin cho mọi
người; phần này cũng cho biết những sai lệch
mà kitô hữu cần tránh để hiểu đúng thực
tại mặc khải;
· phần IV: một nỗ
lực lư giải cách nhất quán về mặc khải.
Mặc
khải là tri thức của Thiên Chúa, là lời Thiên Chúa ban
cho con người, để con người biết về
Thiên Chúa, về con người và về chương tŕnh cứu
độ con người; mặc khải c̣n được
coi là cuộc t́nh giữa Thiên Chúa và con người, trong
đó Thiên Chúa gặp gỡ, mời gọi, tỏ lộ
và chăm lo săn sóc con người; đỉnh điểm
mặc khải là Đức Yêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập
thể làm người. Với biến cố này, Thiên Chúa
đă đi đến tận cùng của t́nh yêu: Ngài trao ban
chính ḿnh cho con người. Biến cố Lời Thiên Chúa
nhập thể làm người, vừa là t́nh yêu vừa là
phương tiện tuyệt hảo biểu lộ t́nh yêu.
Với
biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, mặc khải
không chỉ ở b́nh diện tri thức, nhưng là chính thực
tại, chính sự sống vĩnh cửu, là yếu tố
cấu thành “đời sống theo Thần Khí” của con
người.
Thiên
Chúa đă mặc khải! Về phía con người? Con
người tự do đáp trả mặc khải. Đáp
trả mặc khải, không chỉ đơn thuần là
tin những điều được mặc khải là
đúng, nhưng chính yếu là tin vào Đấng mặc khải,
tin rằng Thiên Chúa yêu ḿnh, và như vậy, phó thác đời
sống ḿnh cho Thiên Chúa tùy Ngài định đoạt. Các
thiên thần phản loạn, biết có Thiên Chúa, biết những
điều được mặc khải là chân lư,
nhưng họ không quy phục Thiên Chúa, họ không muốn
sống trong t́nh yêu của Thiên Chúa, họ không phó thác tất
cả cho Thiên Chúa.
Mặc
khải đă xảy ra trong lịch sử, nhưng mặc
khải cũng được hiện tại hóa cho những
người đang sống. Như vậy, con người
phải liên tục đáp trả lời mời gọi của
Thiên Chúa trong cuộc sống, qua những biến cố
hàng ngày, qua kinh nguyện, qua lời rao giảng của Hội
Thánh...! Làm như vậy, là đang vươn tới Thiên
Chúa, là tin tưởng và phó thác đời sống trong ṿng
tay Thiên Chúa T́nh Yêu. Mặc khải là mặc khải t́nh yêu
và mặc khải để sống trong t́nh yêu.
(Những
sách được trích dẫn)
ĐÀO DUY ANH, Hán Việt Từ
Điển,
J. AUER, art. “Grâce”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI 1, BURNS and OATES 1968
M. A. BAILLY,
Abrégé du Dictionnaire Grec - Francais, PARIS 1961
H. M. BAUMGARTNER, art. “Transcendantal
Philosophy”, SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
E. BIHLMEYER, Histoire de l'E'glise, t. I ,
SALVATOR - PARIS 1962
F. CAYRÉ, Précis de Patrologie, t. I, DESLÉE
et Cie- PARIS 1927
H. CAZELLES, Introduction à la Bible
Introduction critique à l'ancient Testament, t. II, DDB. 1973
Y. DORTIGUES, La Foi et la Théologie,
H. CORNELIS et A. LÉONARD, La Gnose
éternelle, Col. Je sais-ie crois, n.146 -
A. DARTIGUES, La Révélation du sens au
salut, DESCLÉE 1985
J. DE FINANCE, Connaissance de l'Être, DDB-
PARIS 1966
H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire,
CERF 1974
DENZINGER - SCHOENMETZER, Enchiridion
Symbolorum Definitionum et Declarationum, HERDER 1963
A. DULLES, Revelation Theology, BURNS and
OATES - HERDER and HERDER 1969
H. FRIES, art. “Révélation”, trong MYSTERIUM
SALUTIS t. I, vol. I, CERF-
H. FRIES, “Le Mythe et la Révélation”, trong
QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD’HUI, DDB -
Cl. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la
théologie fondamentale. Essai d'interprétation”, trong CONCILIUM 46 (1969), pp.
11-28
R. HAARDT, art. “Gnosticism”, trong
SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968
A. HALDER, art. “Knowledge”, trong
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
U. HORST, “La conception de la Révélation
dans la haute scolastique”
trong MICHEL SEYBOLD, La révélation dans
l'écriture, la patristique, la scolastique, CERF- PARIS 1974
Thánh Công đồng
chung Vaticanô II, GHHV PIÔ X ĐÀ LẠT,
R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits- La
doctrine augustinienne de l'illumination, DDB et Cie- PARIS 1934
N. JUNG, art. “Révélation”, trong DTC, t.
XIII, col. 2586
A. KELLER, art. “Universals”, trong
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
K. KRENN, art. “Kantiannism”, trong
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation,
DDB. 1966
R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut,
PARIS 1968
R. LATOURELLE, art. “La spécificité de la
Révélation chrétienne”, trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et
Chaldaicum, LIPSIAE 1905
J. PHẠM THANH LIÊM, Thần học
các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ĐALAT 1982, bđm.
LNC (14.12.52), Dẫn nhập Thần
học, ĐL. 38
A. LOISY, The Gospel and the Church, PARIS
1903
J. E. McKENZIE, Dictionary of the Bible,
MILWAUKKE 1965
J. E. McKENZIE, art. “Aspects of old
Testament Thought”, trong Jerome Biblical Commentary
LÊ TÔN NGHIÊM, Lịch sử Triết
học Tây Phương, LÁ BỐI 1970
G. PARRINDER, “Revelation in other
Scriptures” trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
PAUL VI, enc. “Ecclesiam suam”
K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, MAME 1968
K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, MAME
1967
K. RAHNER, “A propos de la réforme des
études ecclésiastiques”, trong K. RAHNER, Est-il possible aujourd'hui de
croire, MAME 1966
K. RAHNER, art. “SALVATION”, trong MYSTERIUM
SALUTIS - HERDER 1970
F. RICKEN, art. “Platonism”, trong
SACRAMENTUM MUNDI
J. SPLETT, art. “Agnosticism”, trong
SACRAMENTUM MUNDI - BURNS and OATES 1968
P. STOCKMEIER, “Révélation dans l'Église
chrétienne primitive”, trong La Révélation dans l'Écriture, la patristique, la
Scolastique, Col. HISTOIRE DES DOGMES- CERF 1974
THANH NGHỊ, Việt
THIỀU CHỬU, Hán Việt Tự
Điển, HÀ NỘI 1942
G. THILS, Propos et Problèmes de la
théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966
S. THOMAE In
Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI -
S. THOMAE, Summa Theologiae, MARIETTI-ITALY
1952
S. THOMAE AQUINATIS, Liber de Veritate
Catholicae Fidei contra errores Infidelium seu Summa Contra Gentiles, MARIETTI
1961
F. J. THONNARD, Extraits des grands
philosophes, DESCLÉE et Cie-PARIS 1963.
F. J. THONNARD, Présis d'histoire de la
philosophie, DESCLÉE et Cie-PARIS 1966.
Kinh Thánh, bd.
NGUYỄN THẾ THUẤN, DCCT-SG. 1976
INHAXIO LOYOLA, Linh thao, NTDT- THỦ
ĐỨC 1969
G. A. WETTER, art. “Marxism”, trong
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
Mặc
Khải MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] CONCILIUM FLORENTINUM, Bulla unionis Coptorum Aethiopumque “Cantate Domino”, 4 Febr. 1442
DS. 1330: “Omnia in Deo sunt unum, ubi non obviat relationis oppositio”.
[2] Lư trí “tự do”, là lư trí không dừng lại nơi sự vật, nhưng siêu vượt vật thể hướng về hiện hữu tất yếu tuyệt đối.
[3] Xem DS. 73; 172; 415; ...
[4] Khi nói: “T́nh yêu là hành vi tự do”, phải hiểu là: “hành vi biểu lộ t́nh yêu là hành vi tự do”>).
[5] THIỀU CHỬU, Hán Việt từ điển, HÀ NỘI 1942
Ân: ơn. Yêu mà giúp đỡ ban cho cái ǵ gọi là ân.
[6] God became man so that man might become God
(Athanasius and Gregory Nazianzenus).
Cf. JOHANN AUER, art. “Grace”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI I, p. 413
[7] H.
CORNÉLIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle,
coll. Je sais-je crois, n. 146
[8] Op. cit., pp. 34 ss
A. DARTIGUES, La Révelation du sens au salut, DESCLÉE 1985, pp. 22 ss
ROBERT HAARDT, art. “Gnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968, pp. 379-381
[9] Các triết thuyết cũng có thể trở thành tôn giáo; lúc đó chân lư theo triết thuyết trở thành tri thức cứu độ đối với người tin và theo triết thuyết đó. Người ta có thể gọi nó là ngộ đạo triết lư.
Cf. A. DARTIGUES, op. cit., pp. 25-36
[10] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum,
LIPSAE 1905, từ "DABAR”, p. 75
[11] A. BAILLY, Abrégé du dictionnaire Grec-Francais,
HACHETTE-PARIS 1961, từ ngữ “logos”, p. 538
[12] Ghi chú nơi S. THOMAE Summa theologiae, I, q. 85, a. 2 của nxb. MARIETTI 1952, p. 584
[13] 1Cor. 3, 21b-23: V́ mọi sự đều thuộc về anh em, dù là Phaolô, Apôllô, hay Kêpha, dù là thế gian, dù là sự sống hay sự chết, dù là hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, c̣n anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa.
[14] thấy trong giấc mộng, như trường hợp thiên thần hiện ra cho Yuse Mt. 1, 20
[15] Lời xét như phương tiện mặc khải ở đây, được hiểu một cách tối thiểu như các ư niệm.
[16] YNHĂ, Linh Thao, NHÀ TẬP D̉NG TÊN 1969, số 230
[17] như chữa lành nhiều bệnh nhân, cho người què đi được, kẻ câm nói được, người mù được thấy, người chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, đi trên biển, quát biển im lặng...
[18] xem thêm Ga. 10, 17-18 và Mt. 26, 28.
[19] Ga. 14, 26: “Nhưng Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta đă nói với các ngươi”.
Ga. 16, 13-15: “...V́ không phải tự ḿnh mà Ngài nói, nhưng nghe ǵ Ngài sẽ nói ra, và Ngài sẽ loan báo cho các ngươi những điều sẽ đến... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi...”
[20] Lời
hứa của Thiên Chúa cho Abraham: “Hăy đi khỏi xứ sở
ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha
ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho
ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn,
Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh
ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối
chúc lành...” (
“Ta sẽ ban xứ này cho ḍng giống
ngươi” (
“Hăy ngước mắt lên và từ chỗ
ngươi đứng, hăy nh́n tứ phía Bắc
“Ta sẽ cho ḍng giống ngươi
đông như bụi đất, khiến cho ai đếm
được bụi đất, th́ cũng tính sổ
được ḍng giống ngươi” (
“Lạy Yavê, Ngài ban ǵ cho tôi khi tôi vô hậu...
Hăy nh́n lên trời và hăy đếm các tinh sao, nếu
ngươi có tài đếm được chúng... “ (
[21] Khao khát sống lâu được coi như khao khát chính đáng. Sống lâu được coi như dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành cho người đó.
Xh. 20, 12: “Hăy trọng kính cha mẹ, ngơ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên thửa đất...” Cf. Đnl. 4, 40; 5, 33; 6, 2; ...
[22] Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta! Ai ăn bánh này, th́ sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt ḿnh Ta v́ sự sống thế gian.
[23] Kinh
Thánh nói Abraham giàu có (
[24] Đây cũng là lư do tại sao có những người xả thân sống đời dâng hiến, họ từ chối lập gia đ́nh, và không t́m kiếm hoặc thu tích của cải...
[25] Công Đồng Vatican II trong hiến chế Dei Verbum số 4, dạy:
“Vậy nhiệm cục Kitô giáo, v́ là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Yêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang”.
Cha F. Gomez giải thích: “V́ Chúa Kitô là sự viên măn và như vậy hoàn tất mặc khải, nên không c̣n ǵ vượt trên sự viên măn nữa. Nhưng cuộc mặc khải c̣n chờ sự vinh quang vào ngày Quang Lâm”.
Xem trong THÁNH CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II, bản dịch của GGHV-DALAT VIETNAM 1972, p. 571, ghi chú 13
[26] Mc. 13, 32: “Về ngày ấy hay giờ ấy, th́ chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa trừ phi là Cha”. Cf. 1Thess. 5, 1-3.
[27] Lời tuyên xưng sau truyền phép trong thánh lễ theo nghi thức Roma.